Làm rõ 5 điểm hạn chế của thị trường lao động Việt Nam

Bên cạnh những điểm tích cực, thị trường lao động Việt Nam có 5 điểm hạn chế, trong đó chất lượng nguồn lao động vẫn là vấn đề cần quan tâm.

Thu nhập bình quân của người lao động tăng ở hầu hết các ngành

Chia sẻ về những mặt tích cực của thị trường lao động Việt Nam trong quý II và 6 tháng đầu năm 2024, ông Phạm Hoài Nam – Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động (Tổng cục Thống kê) cho rằng: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II/2024 là 52,5 triệu người, tăng 148,6 nghìn người so với quý trước và tăng 217,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt gần 52,5 triệu người, tăng 196,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II năm 2024 là 52,5 triệu người, tăng 148,6 nghìn người so với quý trước

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II năm 2024 là 52,5 triệu người, tăng 148,6 nghìn người so với quý trước

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý II/2024 là 68,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý trước. Cùng với đó, lao động có việc làm quý II/2024 đạt hơn 51,4 triệu người, tăng 126,6 nghìn người, tương ứng tăng 0,25% so với quý trước và tăng 217,4 nghìn người, tương ứng tăng 0,42% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam vẫn đang thời kỳ cơ cấu dân số vàng với quy mô dân số trong độ tuổi lao động dồi dào và tăng hàng năm, đây là lợi thế để bổ sung lực lượng lao động, bao gồm cả lao động có việc làm.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, lao động có việc làm đạt 51,4 triệu người, tăng 195,8 nghìn người (tương ứng tăng 0,38%) so với 6 tháng đầu năm 2023.

Điểm tích cực của thị trường lao động quý II là tỷ lệ lao động Việt Nam có bằng cấp hoặc chứng chỉ đạt mức 28,1%. Tỷ lệ này tăng 0,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

“Việt Nam, giống như nhiều quốc gia khác, đang trải qua một quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa nhanh chóng. Trong một nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa và công nghiệp hóa, nhu cầu về nhân lực có trình độ cao và có kỹ năng đặc biệt là rất quan trọng. Do đó, nhận thức về sự cần thiết của việc duy trì và phát triển kỹ năng thông qua việc học tập liên tục đang tăng lên trong cộng đồng lao động Việt Nam. Mở rộng cơ sở giáo dục cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường tỷ lệ lao động qua đào tạo liên tục. Việt Nam đã chú trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục và mở rộng cơ sở hạ tầng giáo dục để cung cấp cơ hội học tập cho nhiều người dân hơn. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp tục học tập và nâng cao trình độ sau khi tham gia vào lực lượng lao động” – ông Phạm Hoài Nam lý giải.

Quý II/2024 cũng ghi nhận, thu nhập bình quân tháng của lao động tăng lên ở hầu hết các ngành kinh tế so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, lao động làm việc trong một số ngành kinh tế ghi nhận tốc độ tăng thu nhập bình quân khá so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân tháng của lao động làm trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước là 11,2 triệu đồng, tăng 13,9%, tương ứng tăng 1,4 triệu đồng; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải là 9,0 triệu đồng, tăng 12,3%, tương ứng tăng 981 nghìn đồng; ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm là 12,7 triệu đồng, tăng 11,7%, tương ứng tăng 1,3 triệu đồng; ngành hoạt động kinh doanh bất động sản là 11,7 triệu đồng, tăng 11,1%, tương ứng tăng 1,2 triệu đồng; ngành khai khoáng là 11,0 triệu đồng, tăng 8,5%, tương ứng tăng 866 nghìn đồng.

Chất lượng cung lao động vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập

Chất lượng cung lao động vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập

Những điểm hạn chế của thị trường lao động

Bên cạnh những điểm tích cực, ông Phạm Hoài Nam cũng chỉ rõ những hạn chế của thị trường lao động Việt Nam, những hạn chế này thể hiện qua 5 yếu tố, bao gồm:

Thứ nhất, về chất lượng nguồn cung lao động vẫn còn bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập (khoảng hơn 70% lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên).

Thứ hai, thị trường lao động chưa có sự cải thiện nhiều về chất lượng lao động khi số lao động phi chính thức làm các công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng hơn ba phần năm tổng số lao động có việc làm của cả nước.

Thứ ba, trong 5 tháng đầu năm 2024, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn với 66,1 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước; 23,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ giải thể, giảm 8,8%; và gần 8 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 8,4%. Trung bình mỗi tháng có 19,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Ngoài khó khăn từ môi trường kinh doanh bên ngoài, các doanh nghiệp còn đối mặt với những vấn đề nội tại như quy mô và "tuổi thọ" giảm, năng lực cạnh tranh yếu kém, và khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn và thị trường. Do vậy, tình hình thiếu việc làm quý này cao hơn quý trước.

Thứ tư, tình hình doanh nghiệp khó khăn với bình quân khoảng 20 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường lao động trong 6 tháng đầu năm là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động tăng lên trong quý này so với quý trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II/2024 là 2,29%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,01 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,27%, không thay đổi so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tình hình thất nghiệp 6 tháng đầu năm nay chưa có sự cải thiện hơn so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên vẫn dao động quanh mức 2,2% như thời kỳ trước dịch Covid-19 xuất hiện.

Thứ năm, trong quý II/2024, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên 15-24 vẫn duy trì mức cao với 8,01%, tăng 0,02 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,60 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. So với tỷ lệ thất nghiệp chung, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên luôn cao hơn. Do thanh niên là lực lượng trẻ, nên nhu cầu có việc làm cao hơn các lực lượng khác vì vậy họ bắt buộc tìm kiếm việc làm. Bên cạnh đó, họ thường được trang bị các kiến thức tốt hơn với trình độ cao hơn nên họ có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn nên ko tham gia thị trường lao động, họ có thể không chấp nhận làm các công việc tạm thời thu nhập thấp, họ sẽ trì hoãn để cho đến khi tìm được công việc như ý.

Nguyễn Hòa

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/lam-ro-5-diem-han-che-cua-thi-truong-lao-dong-viet-nam-329943.html