Làm thế nào để ứng phó với một tiến trình không thể đảo ngược?
Theo số liệu từ Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA), trong năm 2024, mực nước biển toàn cầu đã tăng 0,59 cm, vượt xa mức dự đoán 0,43cm của giới nghiên cứu khoa học. Cũng theo NASA, từ năm 1993 đến năm 2023, mực nước biển trung bình trên toàn cầu đã tăng khoảng 10 cm.

Rừng ngập mặn - một “lá chắn thiên nhiên” hữu hiệu, trước tình trạng nước biển dâng. (Ảnh Thành Đạt)
Đồ thị này vừa là một lời cảnh báo gay gắt, vừa đặt ra những thách thức to lớn và toàn diện, đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Lời đe dọa từ đại dương
Nhà nghiên cứu Josh Willis nhận xét: “Mỗi năm, số liệu có sự khác biệt đôi chút, nhưng rõ ràng mực nước biển đang tăng với tốc độ ngày càng nhanh hơn”. Biến đổi khí hậu cùng với việc nhiệt độ trung bình bề mặt Trái đất tăng do khí thải nhà kính là những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng này.
Như giới khoa học phân tích, sự tan chảy của sông băng và hiện tượng giãn nở của nước do nhiệt độ cao là hai nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nước biển dâng. Theo ước tính của Cơ quan Giám sát sông băng thế giới (World Glacier Monitoring Service/WGMS), kể từ năm 1975 đến nay, Trái đất đã mất 9.000 tỷ tấn băng từ các dãy núi, tương đương với một khối băng dày 25m và có diện tích bằng nước Đức (357.592 km2). Nếu tình trạng biến đổi khí hậu không được kiểm soát, hơn 75% sông băng trên thế giới có nguy cơ biến mất vào năm 2100, kéo theo mực nước biển dâng cao và đe dọa nghiêm trọng nguồn cung nước ngọt cho hàng tỷ người.
Phát biểu tại Hội nghị cấp cao về các mối đe dọa từ tình trạng nước biển dâng, tháng 9/2024, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres nhấn mạnh: “Khoảng 900 triệu người đang sinh sống tại các vùng ven biển thấp. Mực nước biển dâng đồng nghĩa với thủy triều dâng cao, gây ra nguy cơ ngày càng tăng của các đợt sóng bão dữ dội, xói mòn bờ biển và lũ lụt ven biển". Ông cũng cảnh báo về những hậu quả nghiêm trọng như cộng đồng bị nhấn chìm, nguồn nước ngọt bị ô nhiễm, mùa màng và cơ sở hạ tầng bị phá hủy, đa dạng sinh học suy giảm và nền kinh tế bị tàn phá.
Cũng trong hội nghị này, Liên hợp quốc u ám dự báo: Tình trạng nước biển dâng có thể khiến năm quốc đảo ở Thái Bình Dương, gồm Maldives, Tuvalu, Quần đảo Marshall, Nauru và Kiribati, sẽ không thể ở được vào năm 2100, tạo ra khoảng 600 nghìn người tị nạn khí hậu không quốc tịch. Và chứng minh cho dự đoán đó, tháng 7/2025, khoảng hơn 3.000 người dân Tuvalu - một hòn đảo nằm ở Nam Thái Bình Dương - đã nộp đơn xin thị thực để được di cư tới Australia, khi quê nhà của họ không còn là nơi trú ngụ an toàn.
“Tị nạn khí hậu” là một thuật ngữ mới, nhưng điều đáng sợ là nó có thể sẽ trở nên ngày càng quen thuộc, đối với cộng đồng quốc tế. “Những nghiên cứu khoa học mới đây cho thấy: Chuyện nhiệt độ Trái đất tăng thêm hai độ có khả năng dẫn đến việc mất gần như toàn bộ lớp băng ở Greenland và phần lớn lớp băng ở Tây Nam Cực. Điều này có nghĩa là các thế hệ tương lai sẽ phải chịu mực nước biển dâng cao không ngừng lên tới 20 mét - trong suốt hàng thiên niên kỷ” - Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres đánh giá.
Trên thực tế, chỉ cần mực nước biển dâng đạt 100 cm thôi, 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long - “vựa lúa” đóng vai trò chủ chốt trong lĩnh vực bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước - (cùng 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh ven biển khác) sẽ biến mất. Vị thế quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới của Việt Nam, do đó, cũng có thể sẽ không còn. Thậm chí, trong trường hợp ấy, chúng ta sẽ còn phải tính đến chuyện tìm những nguồn nhập khẩu lương thực, để lo bữa ăn hằng ngày cho hơn 100 triệu người dân.
Và cũng trên thực tế, ngay lúc này, quá trình nước biển dâng đã và đang liên tục làm gia tăng những đợt xâm nhập mặn gay gắt, làm suy thoái nghiêm trọng tài nguyên nước mặt, nước ngầm; từ đó xói mòn chất lượng tài nguyên đất, cũng như làm ảnh hưởng đến sinh kế cùng điều kiện sinh hoạt của hàng triệu người dân trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Không chỉ vậy, nước biển dâng cũng góp phần làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, dẫn tới thiên tai ngày một khốc liệt. Xa hơn, nó đe dọa hủy hoại mọi nỗ lực hoàn thành các Mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) mà Đảng và Nhà nước đang hướng tới, theo những cam kết quốc tế.
Trên hết, những tổn thương mà tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu nói chung, quá trình nước biển dâng nói riêng gây ra cũng có thể tạo nên những biến động dữ dội, về cân bằng chiến lược cũng như các xáo trộn trên bản đồ địa chính trị thế giới.
Phương trình không dễ cân bằng
Cho đến hiện tại, ngay cả Liên hợp quốc cũng chưa đề ra được một chương trình hành động toàn cầu khả thi, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng nước biển dâng, đồng thời giải quyết bài toán hóc búa: Mối liên hệ hữu cơ và mật thiết giữa chuyện mực nước biển dâng cao với những sự tàn phá đối với các hệ thống sản xuất nông nghiệp, cùng tình trạng khủng hoảng an ninh lương thực đang xảy ra ở không ít nơi trên thế giới. Những lời kêu gọi hành động vẫn đều đặn được đưa ra, đặc biệt là trước thời điểm chuẩn bị diễn ra Hội nghị Các bên tham gia Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP) hằng năm.
Một cách ngắn gọn, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres từng tóm tắt: “Đôi khi các nước phát triển nói: Chúng tôi đã thực hiện một chương trình giảm khí thải, vậy nên các nền kinh tế mới nổi giờ đây cũng sẽ làm như vậy. Các nền kinh tế mới nổi lại nói: Nhưng các bạn đã gây ô nhiễm trong nhiều thập kỷ, và giờ chúng tôi cũng cần một số biên độ phù hợp với sự phát triển của đất nước. Và nếu chúng ta tính theo tiêu dùng thay vì theo sản xuất, thì lượng khí thải ở các nước phát triển sẽ cao hơn nhiều... Chúng ta không thể tiếp tục đổ lỗi cho nhau. Chúng ta cần có một hành động toàn cầu thống nhất để giảm mạnh lượng khí thải cho đến năm 2030. Nếu điều đó không xảy ra, chúng ta sẽ rơi vào tình thế không thể đảo ngược với những hậu quả vô cùng tàn khốc”.
Bối cảnh ấy khiến mỗi quốc gia đều phải tự tìm cách thích nghi với nghịch cảnh, để trước hết, bảo vệ những nhu cầu tối thiểu như lương thực, nước sạch và chỗ ở cho công dân của mình. Thí dụ, Indonesia đã quyết định xây dựng bức tường chắn biển khổng lồ kéo dài hàng trăm km, nhằm bảo vệ các cánh đồng lúa ở đảo Java. Tại những đảo quốc dễ bị tổn thương, như Fiji và Tuvalu, chính quyền cũng di dời dân cư lên vùng đất cao hơn hoặc xây dựng thành phố nổi và lấn biển.
Việt Nam, không ngoại lệ, cũng đối diện vấn đề ấy. Trong ngắn hạn, những giải pháp thiết thực được lựa chọn, mang tính định hướng, theo hai nhóm. Ở nhóm “Giải pháp công trình”, Việt Nam chú trọng việc xây dựng các công trình kiểm soát nước mặn và bảo vệ nguồn nước ngọt: Trước hết, cần phát triển hệ thống đê biển kết hợp với rừng ngập mặn nhằm tạo lá chắn tự nhiên, giúp giảm tác động của nước biển dâng và hạn chế xâm nhập mặn vào nội địa. Bên cạnh đó, xây dựng các cống ngăn mặn tại các cửa sông chính như sông Tiền, sông Hậu sẽ giúp kiểm soát mức độ xâm nhập mặn, bảo đảm lượng nước ngọt duy trì trong các kênh nội đồng, đặc biệt trong mùa khô. Ngoài ra, hệ thống hồ trữ nước ngọt và kênh phân phối nước cần được đầu tư mở rộng và nâng cấp. Hệ thống kênh mương dẫn nước từ sông Mê Công cũng cần được cải thiện để đảm bảo khả năng phân phối nước ngọt hiệu quả hơn đến các khu vực bị ảnh hưởng. Ứng dụng công nghệ xử lý nước cũng là một giải pháp cần thiết. Công nghệ lọc nước biển thành nước ngọt bằng phương pháp thẩm thấu ngược (RO) đã được triển khai thành công tại một số địa phương ven biển, góp phần giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt. Ngoài ra, phát triển hệ thống thu gom và xử lý nước mưa để tận dụng tối đa nguồn nước tự nhiên cũng là một hướng đi quan trọng, giúp bổ sung nguồn nước ngọt và giảm phụ thuộc vào nước sông”, (TS Lê Văn Giang, Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội).
Ở nhóm “Giải pháp phi công trình”, việc thay đổi mô hình sản xuất nông nghiệp để thích ứng với điều kiện mới là điều tối quan trọng. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi đi kèm nghiên cứu nhằm lai tạo các giống cây trồng có khả năng chịu mặn cao cần được đẩy mạnh, để giúp người nông dân ứng phó với điều kiện biến đổi khí hậu.
Nhưng hơn thế, yếu tố then chốt còn là yêu cầu nâng cao ý thức cộng đồng (thông qua tuyên truyền, đào tạo) và quản lý tài nguyên nước hợp lý. Những nỗ lực xây dựng và hoàn thiện các hệ thống cảnh báo sớm cũng sẽ giúp các địa phương và người dân có sự chuẩn bị chủ động hơn, hạn chế thiệt hại do nước biển dâng gây ra.
Tất cả các nhóm giải pháp này cần được thể chế hóa bằng đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật, những quy hoạch dài hạn mang tính khoa học, để đưa cả hệ thống chính trị vào cuộc.
Và cuối cùng, trong thế giới phẳng hiện tại, khi chúng ta nhận ra rằng hầu như tất cả mọi lĩnh vực đều có liên quan đến nhau, theo cách này hay cách khác, Việt Nam vẫn sẽ phải đi tiên phong trong xu thế cắt giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch, để bằng mọi giá hạ thấp lượng khí thải, chặn đứng đà tăng của nền nhiệt toàn cầu.
Bởi, những sông băng ở hai địa cực càng chậm tan chảy, sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam càng ổn định và bền vững ■