Lặng lẽ thương…
Giữa những hành lang dài xộc mùi thuốc sát trùng, đêm trắng vẫn đều đặn trôi qua như dòng sông không ngừng chảy. Ở đó, có những người đàn ông thức cùng tiếng máy thở, đêm nằm cạnh những nhịp tim yếu ớt. Họ lặng lẽ ở bên những người không thể tự lo cho mình, như thể đó là định mệnh, hay một cách sống tử tế giữa thế gian nhiều đổi thay. Họ thắp lên ánh sáng ấm áp mà máy móc không thể thay thế: ánh sáng của lòng trắc ẩn.
Hơn hai mươi năm nay, ông Vũ Trọng Tấn, người đàn ông ở thôn Đồn Vực, xã Đồng Lương, huyện Thanh Sơn cũ (Phú Thọ) sống cuộc đời không địa chỉ thường trú. Nơi ông trú ngụ là những hành lang dài của bệnh viện, chỗ ông ngủ là những chiếc giường xếp cạnh giường bệnh nhân. Cái nghề mà người ta gọi bằng nhiều tên: người chăm bệnh thuê, người nuôi bệnh dịch vụ... với ông, đơn giản chỉ là “người ở bên cạnh những người không thể tự lo cho mình”.
Ngày đầu xuống Hà Nội, ông Tấn mới ngoài bốn mươi, thân hình rắn rỏi, nước da sạm nắng của người làm công nhân ở bến Phà Đen bên bờ sông Hồng. Cuộc sống trôi theo nhịp ca kíp, mồ hôi đổ ra nhiều mà đồng tiền lại chẳng dễ cầm. Một lần, trong chuyến vào viện thăm người quen, ông tình cờ gặp mấy người cùng quê đang làm nghề chăm bệnh nhân nặng. Thấy công việc này tuy vất vả nhưng “đỡ mưa nắng, lại có đồng ra đồng vào”, ông thử xin theo, rồi gắn bó đến giờ đã hơn hai mươi năm.

Ông Tấn (trái) và vợ chồng ông Bình hàn huyên
Những ngày đầu, ông Tấn cùng vài người trong làng ở rải rác khắp các bệnh viện lớn. Khi ấy, Bệnh viện Việt Xô gần như trở thành “trung tâm” của người Đồng Lương làm nghề chăm bệnh thuê - một thứ “đặc sản” không tên trong lòng thành phố. Người nhà bệnh nhân ở đây thường khá giả, nhưng thiếu thời gian. Thế là, những người đàn ông quê nghèo như ông trở thành đôi tay, đôi chân, đôi mắt thay họ trong cuộc chiến dai dẳng với bệnh tật. Không thuê trọ, cũng chẳng có nhà. “Có khách” thì ông trải giường gấp ngủ ngay trong phòng, cạnh giường bệnh nhân. Ế khách thì tìm một góc tối trong hành lang bệnh viện nằm tạm. Khi bảo vệ đuổi, ông lặng lẽ xách đồ sang Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 gần đó kiếm chỗ khác. Họ - những người rời quê đi làm thuê trong bệnh viện sống len lỏi như những cái bóng, chỉ hiện hữu khi ai đó cần.
Trong căn nhà nhỏ ở thôn Đồn Vực, ông Tấn ngồi tựa bên khung cửa sổ, ánh nhìn lặng lẽ rơi ra khu vườn ngoài kia. “Hơn 20 năm làm nghề này, tôi chỉ thấy không khí Tết khi đứng từ tầng cao phòng bệnh, nhìn pháo hoa Hà Nội bắn lúc giao thừa”, ông chậm rãi nói, giọng như gió trôi qua kí ức.
Tôi gặp ông Tấn lần đầu trong khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Đống Đa, khi bố tôi phải nhập viện. Lúc ấy, tôi còn lóng ngóng, chưa quen với nhịp sinh hoạt của một “phòng bệnh đặc biệt”, nơi thời gian dường như ngưng đọng giữa ranh giới sống - chết. “Cô vào toilet ra nhớ chùi dép vào cái thảm này, đừng để nước dây ra sàn”, giọng nói khẽ vang lên sau lưng. Tôi chưa kịp ngẩng lên thì người đàn ông ấy đã đi ra ngoài, dáng lặng lẽ. Sau này tôi mới biết, đó là ông Tấn - người chăm sóc bệnh nhân nằm cạnh giường bố tôi. Tôi để ý, ông làm việc cẩn trọng và thuần thục như một điều dưỡng. Khi thì thay ga gối, lau người, đến bữa lại bơm sữa qua ống sonde cho người đàn ông nằm bất động trên giường bệnh... Mọi động tác đều nhanh nhẹn, chuẩn xác, sạch sẽ đến ngạc nhiên. Chị hộ lí nói nhỏ: “Anh này làm lâu rồi, sạch sẽ lắm. Nhiều khi bọn em chưa kịp vào lau sàn, anh ấy đã làm tinh tươm. Nhà nào thuê được anh ấy thì yên tâm lắm”.

Ông Bình đưa bệnh nhân về nhà mình chăm sóc
Quả đúng như vậy. Bệnh nhân ông chăm là một người đàn ông bị nhược cơ, ba năm nay nằm bất động. Mọi sinh hoạt đều do ông Tấn lo liệu. Vợ bệnh nhân kể với tôi: “Tôi chỉ vào thăm chồng, nói chuyện động viên. Còn lại, anh ấy lo hết. Tắm rửa, ăn uống, thuốc men… có khi còn hiểu chồng tôi hơn cả tôi”. Một lần, thấy không ai xem tivi, tôi với tay tắt. Ông Tấn khẽ nói: “Ông ấy dỗi rồi đấy, đang xem mà cô tắt mất”. Tôi giật mình. Hóa ra, người đàn ông không nói, không cử động kia vẫn dõi theo từng chuyển động của đời sống, và chính ông Tấn, bằng sự tinh tế, kiên nhẫn là cầu nối duy nhất giữa người đàn ông mang trọng bệnh với thế giới.
Bà Lan, vợ ông Tấn cũng theo nghề nhiều năm. Có những mùa đông, hai người cùng chăm hai bệnh nhân ở khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Đống Đa. Giữa những giường bệnh có lẽ là khoảng thời gian hiếm hoi ông bà được “ở gần nhau lâu nhất”. Không phải để chăm nhau, mà để cùng chăm những con người xa lạ - những thân phận nằm lặng giữa ranh giới sống và chết. Giờ sức khỏe yếu dần, bà Lan về quê trông cháu, vun lại mảnh vườn xưa. Ông Tấn vẫn dáng người thấp đậm, cần mẫn, tiếp tục một hành trình chưa có ngày kết thúc.
Ngày cuối thu, tôi tìm về Đồn Vực - ngôi làng nhỏ bên triền sông ở miền trung du Phú Thọ. Cánh đồng trước mặt mênh mông nước trắng, chỉ còn trơ lại vài ngọn lúa chìm trong dòng lũ. Cảnh tượng y hệt như lời ông từng kể, khi chúng tôi còn gặp nhau ở Bệnh viện Đống Đa. Đồng Lương không có nghề phụ. Người làng chỉ biết bám vào cánh đồng trũng và con sông hiền lành nhưng bất trắc. Những mùa nước lớn, cả làng dường như bị cô lập giữa biển nước. Thanh niên khỏe mạnh thì rời quê, người đi phụ hồ, người xuống phố làm thuê, kẻ gắn đời mình trong bệnh viện như ông Tấn.
Trong căn nhà nhỏ ở thôn Đồn Vực, ông Tấn ngồi tựa bên khung cửa sổ, ánh nhìn lặng lẽ rơi ra khu vườn ngoài kia. “Hơn 20 năm làm nghề này, tôi chỉ thấy không khí Tết khi đứng từ tầng cao phòng bệnh, nhìn pháo hoa Hà Nội bắn lúc giao thừa”, ông chậm rãi nói, giọng như gió trôi qua kí ức. Hai mươi năm ấy, ông chưa từng đi chơi một lần. Những năm tháng trung niên, ông gắn mình với giường bệnh, với tiếng máy thở, tiếng gọi y tá trong đêm. Ngày ông bà Tấn ra Hà Nội chăm bệnh nhân, họ phải thuê người ở quê trông nom mẹ già. Nghe tôi hỏi: “Anh có thấy mình khổ không?” - ông chỉ cười hiền: “Nếu thấy khổ thì chẳng làm được đâu. Mình chấp nhận, để sau này cuộc sống ổn định hơn, còn để dành cho con cái nữa”.
Những năm đầu vào nghề, hai vợ chồng ông Tấn từng nằm vạ vật ở cầu thang Bệnh viện Việt Xô, đêm đến gối đầu lên balô mà chợp mắt. Có khi không tìm được chỗ, ông lên mái tầng 10 nằm, mưa gió lại phải chạy trú, rét cắt da. Thế mà sáng ra, vẫn chỉnh tề áo quần, vào phòng bệnh lau rửa, bón cháo, đỡ bệnh nhân như chưa từng mệt mỏi.
Dẫn tôi ra bến sông, nơi từng là chốn thân thuộc của tuổi thơ, ông bảo: “Ngày trước tôi hay chèo thuyền ra giữa dòng bắt cá, mò tôm. Giờ về quê cũng vẫn nhớ nghề cũ”.
Nhà của ông Tấn nằm ở giữa xóm. Ngôi nhà khang trang có lẽ không chỉ là chỗ để trở về. Giống như nhiều người Đồng Lương khác, thứ đầu tư duy nhất mà họ biết cho tương lai là một ngôi nhà ở quê. Với họ đó còn là minh chứng duy nhất cho một đời lao động âm thầm, là cách họ đánh dấu sự hiện diện của mình giữa những biến động của đời sống. Tôi nhìn ông, dáng người thấp đậm, đôi bàn tay chai sạn đang lúi húi xếp lại đống ngói ngoài sân. Tiếng nước từ ruộng trũng vọng về, âm âm như nhịp thời gian chậm rãi. Ở nơi ấy, dường như không có khái niệm nghỉ ngơi. Họ chỉ tạm dừng, trước khi lại rời làng với đôi tay đã quen với mùi thuốc sát khuẩn và những đêm thức trắng...

Ông Tấn chăm sóc bệnh nhân nhược cơ suốt 3 năm nay
Gieo những an lành
Những năm qua ông Tấn không còn một mình. Nhiều người trong làng, trong đó có vợ chồng ông Nguyễn Văn Bình, cũng theo nghề. Họ là những người được ông Tấn dẫn dắt, rồi thành bạn đồng hành trong hành trình lặng lẽ giữa các bệnh viện Hà Nội. Ông chỉ họ cách trò chuyện với bệnh nhân, cách pha sữa, lau người, cách giữ cho căn phòng bệnh luôn sạch và có mùi dễ chịu. Ông dạy họ một điều giản dị mà quan trọng nhất: “Không chỉ chăm thân thể, mà phải chăm cả tinh thần của người ta”. Giữa những tiếng máy thở rì rì, tiếng bước chân gấp gáp trong hành lang bệnh viện, có những con người như ông lặng lẽ sống, lặng lẽ làm, lặng lẽ thương...
Thấy tôi mải ngắm xung quanh, ông Tấn bảo: “Sang nhà ông Bình đi, tôi có chuyện hay lắm muốn cô thấy”. Thế là ông dẫn tôi băng qua con ngõ nhỏ đi lên triền đê lộng gió đến nhà ông Bình. Vừa tới cổng đã thấy tiếng cụ ông ho khẽ vọng ra. Trong gian nhà sạch sẽ, gọn gàng, cụ nằm trên chiếc giường gỗ, bên cạnh là một người đàn ông gần 60 tuổi đang nhẹ nhàng kéo lại mép chăn. Tôi chào chủ nhà kèm câu hỏi: “Ông nhà anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi ạ?”.
Ông Tấn cười, chỉ tay: “Đấy, người ta chăm bệnh nhân mà như người nhà, cô thấy hay chưa?”. Đẩy chén nước về phía khách, ông Bình kể, giọng hồ hởi: “Tôi chăm cụ nhiều tháng trong viện, đến khi sức khỏe khá hơn thì cụ về ở với vợ chồng tôi mấy tháng rồi. Tết vừa rồi cụ còn ăn Tết cùng gia đình tôi, cuối tuần con cháu cụ ở Hà Nội lại lên thăm, nhà lúc nào cũng rộn ràng tiếng cười”. Tôi nhìn ánh mắt cụ, nhìn cách ông Bình nhẹ nghiêng người đỡ cụ ngồi dậy, nghe giọng bà Thiện - vợ ông thủ thỉ dỗ cụ ăn thêm miếng cháo, bỗng thấy trong căn nhà nhỏ ấy ngập tràn tình yêu thương. Một thứ tình ấm áp như ruột thịt.
Mỗi tháng, gia đình cụ gửi vợ chồng ông Bình khoảng hai chục triệu đồng, gồm cả tiền ăn ở, sinh hoạt. Nhưng điều quý giá hơn những con số ấy chính là sự tận tâm. Ban đêm, ông nằm bên cụ, chỉ cần nghe một tiếng ho khẽ, một lần trở mình cũng đủ biết cụ khó ở chỗ nào. Nhìn ông Bình cẩn thận gấp lại tấm chăn, vuốt phẳng mép ga giường, tôi hiểu vì sao những người như ông, như ông Tấn, lại được bệnh nhân tin cậy đến thế. Họ không chỉ chăm người bệnh, mà còn chăm cả phần hồn của họ bằng sự nhẫn nại, tử tế, bằng đôi tay sần chai nhưng dịu ấm thương yêu.
Từng chăm bệnh ở khắp các bệnh viện lớn: Bạch Mai, Việt Đức, Bệnh viện K, Viện Bỏng… những năm đầu, ông cũng như ông Tấn, ngủ vạ vật ở hành lang Bệnh viện Việt Xô. Khi bệnh viện cấm ngủ cầu thang, mấy người mới góp tiền thuê phòng trọ, đợi ngày có việc. Có những ca bệnh lây nhiễm, như ở Bệnh viện Lao Phổi, tiền công hơn một triệu một ngày không chỉ vì công việc nặng nhọc, mà còn vì hiểm nguy cận kề. “Nhiều bệnh mà người nhà sợ, không dám lại gần, mình phải thay họ”, ông nói. Giọng ông nhẹ mà sâu, như thể công việc ấy đã trở thành phần máu thịt.
Tôi rời nhà ông Bình khi hoàng hôn buông xuống, những tia nắng cuối ngày vắt nghiêng qua mái ngói, rớt xuống lấp lóa trên vườn chuối sau nhà. Con đường làng đưa tôi đi qua những ngôi nhà có tiếng trẻ con nô đùa, bình yên đến lạ. Nhưng trong tôi vẫn đau đáu câu chuyện của hai người đàn ông đã dành tâm sức hàng chục năm trời bên giường bệnh của người khác.
Công việc ấy, ban đầu chỉ là để mưu sinh, một cách giữ cho mái nhà khỏi chênh vênh giữa những lo toan đời thường. Nhưng theo năm tháng, cái nghề tưởng chỉ là “làm thuê” ấy lại khiến họ hiểu sâu hơn về sự mong manh của kiếp người, về lòng biết ơn và tình thương. Họ như hóa thân cùng người bệnh, nghe tiếng ho cũng lo, thấy bệnh nhân trở mình cũng tỉnh giấc. Trong sự lặp lại của những ngày bình dị và nhọc nhằn, họ đã tìm thấy giá trị không thể đo bằng tiền, đó là cảm giác mình đang được sống có ích, đang giữ ấm và truyền sinh lực cho một sinh mệnh khác.
Giữa cuộc đời nhiều xô lệch, có những người âm thầm như thế, họ không chỉ nuôi sống gia đình bằng đôi tay, mà còn làm giàu thêm cho cuộc đời bằng lòng nhân hậu và sự thấu cảm. Họ đến bên người bệnh để giữ cho thế gian này một khoảng sáng tình người. Và ở đâu đó, trong những phòng bệnh nơi thành phố ồn ào, họ vẫn lặng lẽ thương - thương người, thương đời và thương cả chính phần tâm hồn tử tế của mình...
Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/lang-le-thuong-post1790143.tpo










