Liệt sĩ, nhà báo, Thượng tá Nguyễn Duy Thanh - Anh luôn trong trái tim tôi

Trong khoảng 30 năm làm báo, viết văn trong môi trường quân đội, tôi đã nhiều lần được tiếp cận với sự hy sinh quả cảm của đồng chí, đồng đội mình ngay trong thời bình hôm nay.

Điều đó luôn ám ảnh tôi, day dứt và tiếc nuối, trăn trở và ngẫm ngợi về những tấm gương liệt sĩ, những người mẹ, người vợ liệt sĩ thời bình. Cả những suy tư về lẽ sống, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong cuộc sống ngày càng sôi động và phức tạp. Những cống hiến máu xương ấy, ở ngay trong thời bình hôm nay phải được trân trọng và gìn giữ. Chúng ta phải sống xứng đáng hơn với máu xương của các chị, các anh liệt sĩ. Các anh hy sinh giản dị bao nhiêu thì những người đang sống càng tiếc thương vô hạn bấy nhiêu. Những mạch nguồn sáng trong ấy đã và đang thắp sáng những chặng đường mà người lính vai kề vai bước tiếp. Có người hy sinh ngay ở cơ quan tôi. Trong một chuyến công tác mà chỉ hôm qua thôi anh còn điện thoại dặn tôi điều này điều khác về nghề. Vậy mà chỉ mấy ngày sau. Anh nằm đó, xương cốt cũng chẳng còn được bao nhiêu trong chiếc quan tài kẽm phủ lá cờ đỏ sao vàng. Nước mắt dường như đã là vô nghĩa lý với chúng tôi, những người lính, những đồng đội của anh. Đã gần ba mươi năm, tôi còn như thấy rõ mồn một chiếc quan tài phủ lá cờ đỏ sao vàng ấy.

 Di ảnh Liệt sĩ, Thượng tá Nguyễn Duy Thanh.

Di ảnh Liệt sĩ, Thượng tá Nguyễn Duy Thanh.

Anh là Liệt sĩ - Thượng tá Nguyễn Duy Thanh.

Khi tôi về mái nhà Truyền hình Quân đội Nhân dân (tháng 2 năm 1997) anh đã có hàng chục năm tuổi nghề với rất nhiều phóng sự từ chiến trường nóng bỏng đến những cuộc tháp tùng cờ hoa lộng lẫy nơi trời Âu, trời Phi cùng các đoàn quân sự cấp cao. Người con quê Yên Thắng - Yên Mô - Ninh Bình lịch lãm mà vô cùng gần gũi. Cơ quan báo chí truyền hình mỗi người mỗi nết nhưng vẹn nguyên ở trong ấy là những tấm lòng chan chứa yêu thương. Có thể tranh luận với nhau kịch liệt về nghề, phê phán những điểm yếu, quyết liệt những khuôn hình chưa chuẩn, gay gắt những lời bình hời hợt, dễ dãi nhưng rời phòng họp là yêu thương quấn túm lấy nhau. Người Việt Nam luôn đùm đậu, thế hệ trước gương mẫu chỉ bảo thế hệ sau, thế hệ sau lắng nghe, thực hành những gì các anh các chị răn dạy. Quý là quý ở chỗ đó. Nguyễn Duy Thanh là người như vậy. Tôi về Truyền hình Quân đội nhân dân trong tâm thế mặc cảm của một người trẻ tuổi, chưa từng học nghề, càng chưa từng làm nghề, cái nghề truyền hình vốn đào thải khốc liệt. Các chị các anh, nhiều người đã thành danh, đã là những tên tuổi truyền hình. Chính các chị các anh rộng mở bàn tay đón người em út là tôi. Nguyễn Duy Thanh bảo: - Hãy đi xuống đơn vị cùng anh. Nơi đó là nơi những người trẻ như em rèn luyện trưởng thành.

Tôi nhớ như in lời anh và lăn mình vào bộ đội. Cái ngày ấy vất vả lắm. Bốn giờ sáng tự mình báo thức, khẽ khàng chui khỏi chăn ấm, nhóm lửa ăn bát cơm cà muối rau dưa rồi lọc cọc đạp xe ra bến, đi xe tuyến sang cơ quan 84 Lý Thường Kiệt. Nhà tôi ở một huyện nhỏ tỉnh Hưng Yên, đến cơ quan hơn hai mươi cây số mất già một tiếng. Hôm nào trước sáu giờ sáng tôi đều có mặt ở cơ quan. Tôi vốn con nhà nông dân nên xác định phải lấy cần cù chăm chỉ bù những thiếu hụt về học hành, về nghề nghiệp. Nhà văn Chi Phan khi ấy là Trưởng ban Truyền hình Quân đội nhân dân ở căn phòng riêng trên gác hai cũng đã sáng đèn. Chính đức tính chăm chỉ của ông đã rèn tôi không phải bằng lời nói mà là hành động thường trực của mình. Tôi soạn các tờ báo đóng theo khuôn khổ đặt ngay ngắn trên bàn rồi mau chóng đun nước sôi, chuẩn bị trà, đánh ấm chén để các chú các anh bắt đầu buổi giao ban sớm. Công việc ngày này qua ngày khác. Tôi mặc nhiên kiêm quản vai trò liên lạc của cơ quan. Cần bài vở đưa vào thành đánh máy: sẵn sàng. Cần sang Truyền hình Việt Nam đưa công văn: sẵn sàng. Cần gác cổng sắp xếp xe máy, xe đạp của cộng tác viên tới làm việc: sẵn sàng. Tôi nhập gia đình truyền hình tự nhiên và có phần an nhiên như vậy. Mọi người cũng tận tình chỉ bảo nghề nghiệp cho tôi. Từng câu từng chữ, từng khuôn hình, từng vệt sáng, cả những đường ăn nết ở ở đời các chú, các anh đều chân thành truyền lại cho tôi.

Anh Duy Thanh là người truyền nghề nhiều và tinh. Anh ít nói nhưng khi trò chuyện riêng với tôi anh đều chỉ bảo nghề nghiệp. Anh khẳng định tôi sẽ theo được nghề. Anh luôn rủ tôi đi làm những phóng sự dài về văn hóa thể thao. Anh bảo chú phải phát huy thế mạnh văn học trong làm truyền hình mới có nét riêng và mới định danh nghề nghiệp được. Buổi chúng tôi chào anh lên đường theo đoàn cấp cao thăm nước bạn Lào mùa hè năm 1998 định mệnh cũng là khi anh đang giao tôi thực hiện một phóng sự dài về đội bóng đá Thể Công. Đội đang trên đà vô địch nhưng Duy Thanh đã sớm nhìn thấy những điểm yếu, những hụt hẫng chiến lược của đội bóng quân đội. Duy Thanh rất yêu bóng đá. Anh là bạn thân của huấn luyện viên trưởng Vương Tiến Dũng khi ấy đang cầm trịch đội bóng.

 Nhà báo Nguyễn Duy Thanh (ngoài cùng bên phải) và các đồng nghiệp trong một lần phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1996. Ảnh tư liệu

Nhà báo Nguyễn Duy Thanh (ngoài cùng bên phải) và các đồng nghiệp trong một lần phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1996. Ảnh tư liệu

Trước hôm anh đi Lào, buổi chiều anh mời mấy phóng viên trẻ đi bia hơi gần sân Cột Cờ. Bên cốc bia sủi bọt trắng phau, anh dặn tôi những phỏng vấn với người yêu đội Thể Công. Anh bảo phải để họ cho roi cho vọt mới mong đội bóng trưởng thành bền vững. Đã có dấu hiệu “ngôi sao” ở đội bóng là bắt đầu dốc xuống đấy. Tôi bảo hay chờ anh về vì với những bậc đa đề làng bóng đá tôi chưa chắc đã tiếp cận được. Anh bảo tôi hãy mạnh dạn lên. Mình làm vì nghề, vì đội bóng chứ đâu phải tên tuổi cá nhân ai đó. Anh đã điện thoại cho các vị ấy cả rồi. Phần lời bình anh hoàn toàn tin tưởng ở tôi. Anh bảo nếu chú viết bớt “ôi a” đi thì sẽ sắc hơn. Chú vẫn còn “làm văn” trong lời bình. Lời bình cần chất văn học nhưng tuyệt đối tránh “làm văn”. Những lời dặn của anh, cả sau này khi anh đã mất, ở những lời bình phim xuất sắc nhất được các giải thưởng của tôi, đều có không ít trí tuệ từ những căn dặn của anh.

Ngay chiều hôm sau (25-5-1998), cả cơ quan lặng đi khi nghe thông tin: Máy bay đoàn công tác bị rơi ở Xiêng-Khoảng.

Buổi tối, thời sự đưa tin.

Chúng tôi bị sốc nặng. Không ai nói với ai một điều gì. Tất cả lầm lũi, ngơ ngác, đau đớn những vẫn mong chờ một màu nhiệm nào đó.

Căng thẳng nhất có lẽ là vợ anh.

Chị đến cơ quan với một tâm thế rằng anh chưa hy sinh. Chị bảo anh vẫn còn sống. Máy bay có rơi thật đi nữa thì anh vẫn còn sống trong một cánh rừng ở nước bạn Lào. Một ngày chị khẳng định như thế. Nhiều ngày chị khẳng định như thế. Tất cả cơ quan căng thẳng. Không riêng gì cơ quan truyền hình mà cả các cơ quan cấp trên, cấp rất cao đều đang tất bật, dốc hết sức vào việc tìm kiếm ở thời điểm đó. Việc tiếp cận khu vực máy bay rơi trên đỉnh núi cao hơn hai nghìn mét là vô cùng phức tạp trong mùa mưa nước bạn âm u ngày cũng như đêm. Những tiểu đoàn Đặc công hai nước vạch đá xuyên rừng tiếp cận mục tiêu để xác định rõ ràng người mất người còn liên tiếp báo về những thông tin xấu. Ngay cả Đại tướng Chu Huy Mân, một người lính dày dặn chiến trường qua mấy cuộc chiến tranh cũng vô cùng bồn chồn, bởi con ông, Thượng tá Chu Tấn Sơn cũng có ở trong đoàn công tác.

Nhưng sự thực đau lòng vẫn tàn nhẫn diễn ra.

Đoàn công tác gồm các tướng lĩnh sĩ quan trên chuyến bay, tất cả đã hy sinh.

Cái thông tin ghê gớm ấy giáng xuống đầu những người lính thời bình chúng tôi một đòn chí mạng vào thân thể mỗi người. Trong đám tang kéo dài ấy, có những lúc chúng tôi tưởng như không chịu đựng nổi. Nhìn dãy quan tài kẽm phủ cờ đỏ nằm im lặng trong hội trường sân bay Gia Lâm không một ai cầm lòng được. Ngoài kia trời mưa như trút nước. Sấm nổ đì đoành không dứt. Những vệt sét nhoáng lên trong vòm trời xám xịt nước mưa. Từ tờ mờ sáng, trong hội trường vắng ngắt, tôi thấy rờn rợn khi nhìn vào đôi cầu vai Đại tướng rung rung cùng mái đầu bạc trắng của bác Chu Huy Mân đang ôm chiếc quan tài kẽm có phủ lá cờ của đồng đội ông, của con ông. Hy sinh này vị tướng trận làm sao có thể ngờ được? Mấy chục năm đằng đẵng đánh Pháp, đánh Mỹ, biên giới Tây Nam phía Bắc ở đâu có súng nổ ở đó có mặt vị tướng trận vốn là một trong những trụ cột của quân đội ta. Bây giờ ông ngồi kia, bên lá cờ đỏ sao vàng bọc thi thể con ông. Điều đó là quá sức chịu đựng với một người cha như ông. Tôi đứng như trời trồng không bước được cũng không quay ra được khỏi hội trường mà nước mắt cứ thế rơi ra.

Nhà báo Nguyễn Duy Thanh (thứ 2 từ trái sang) cùng các đồng nghiệp chụp ảnh chung với Chủ tịch nước Lê Đức Anh (năm 1997). Ảnh tư liệu

Nhà báo Nguyễn Duy Thanh (thứ 2 từ trái sang) cùng các đồng nghiệp chụp ảnh chung với Chủ tịch nước Lê Đức Anh (năm 1997). Ảnh tư liệu

Cha mẹ anh Nguyễn Duy Thanh không ngờ là người đứng vững nhất. Cha anh, mái đầu bạc trắng nâng cô con dâu và các cháu đã như tàu lá héo bên ngôi mộ đang lấp đất. Trên trời sấm vẫn nổ đì đoành như thêm thử thách lòng dạ người đang sống. Tôi chưa từng chứng kiến đám tang nào đông người và nhiều nước mắt đến vậy. Em trai liệt sĩ Nguyễn Duy Thanh, anh Việt - khi đó là sĩ quan Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng nén nỗi đau cùng cơ quan đoàn thể thu xếp công việc trong tang lễ. Sau này tôi khá thân với anh và ý thức được mỗi khi người thân mình hy sinh, những người bên cạnh đều có những sự trưởng thành vượt bậc dù không nói nên lời.

Lần đầu tiên tôi chứng kiến một liệt sĩ thời bình là như thế.

Sau này, tưởng nhớ anh, nhớ lời căn dặn của Thượng tá - Liệt sĩ Nguyễn Duy Thanh, tôi thường lăn mình xuống với bộ đội, đặc biệt nơi nào có chiến sĩ ta hy sinh tôi thường sớm có mặt. Đi vì được phân công đã đành. Tôi đi vì còn là sự thôi thúc của trái tim mình. Gia đình dòng họ tôi rất nhiều liệt sĩ. Hôm công tác Điện Biên, vào nghĩa trang liệt sĩ, tôi lặng người trước những liệt sĩ trong đó có nhiều liệt sĩ mang dòng họ Phùng. Thắp những nén hương thơm mà lòng day dứt dưới trời xanh mây trắng. Đã hơn nửa thế kỷ sao những người hy sinh tuổi mười tám đôi mươi vẫn trẻ trung thế này. Dưới đất là xương cốt người đã khuất. Có những người không vẹn nguyên thi thể. Có cả những ngôi mộ gió chỉ đất và đất. Nhưng chính họ đã làm nên lá cờ Tổ quốc tung bay, đã làm nên non sông đàng hoàng to đẹp của ngày hôm nay mà chúng ta đang sống. Những buổi đi nghĩa trang Thành cổ, Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Đường 9, Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, trước trùng trùng mộ trắng, hàng vạn ngôi sao vàng nhấp nháy trên mộ các chị các anh. Gió thổi miên man. Cỏ xanh. Trời xanh. Những dòng sông xanh nơi đất mẹ. Và xa kia là biển xanh vạn dặm mà tổ tiên từng vùi xương trắng máu đào. Năm nào trở lại các nghĩa trang dâng hương cho các chị các anh, chúng tôi đều vẹn nguyên một cảm xúc thương tiếc khôn khuây. Hình hài nào chả do cha mẹ sinh thành. Nào ai ước muốn chiến tranh để những chàng trai cô gái mười tám đôi mươi phải lấy thân mình hiến dâng cho Tổ quốc. Tổ quốc của chúng ta, vẻ đẹp đầu tiên và mãi mãi luôn là vẻ đẹp những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh, trong đó có những người hy sinh ngay ở thời bình như Thượng tá - Liệt sĩ Nguyễn Duy Thanh.

Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/ky-su/liet-si-nha-bao-thuong-ta-nguyen-duy-thanh-anh-luon-trong-trai-tim-toi-842704