Ly kỳ ni sư và sư thầy giành quyền nuôi đứa trẻ bị bỏ rơi
Tòa án hai cấp ở TPHCM đã xét xử một vụ án hy hữu: Một ni sư khởi kiện đòi quyền nuôi con khi đứa trẻ đang ở với một sư thầy.

Ảnh minh họa: AI
Số phận hẩm hiu của đứa trẻ bị bỏ rơi
Năm 2012, một bé trai sơ sinh được quấn trong tã đặt trước cổng một tịnh xá ở tphcm. Nghe tiếng trẻ khóc, ni sư trụ trì tịnh xá đã đưa cháu về chăm sóc. Thời gian sau, không thấy người thân đến nhận lại, ni sư đã làm thủ tục pháp lý nhận cháu làm con nuôi đặt tên cháu là Phan Đức T. Thời gian thấm thoắt, bé T. lớn lên trong sự cưu mang của ni sư và đã trở thành một cậu bé 6 tuổi nhanh nhẹn hoạt bát. Năm 2018, sư thầy trong một lần đến thăm tịnh xá gặp cậu bé T. Ấn tượng trước vẻ đáng yêu của cậu bé, sư thầy đã ngỏ lời với ni sư muốn đưa cậu về chùa mà mình đang trụ trì để nuôi dạy và cho cậu tu tập.
Sư thầy và ni sư cũng làm giấy ủy quyền. Theo đó ni sư với tư cách là mẹ nuôi, ủy quyền cho sư thầy chăm sóc nuôi dưỡng bé T. Từ đó, bé T. theo sư thầy về chùa. Bé được sư thầy đăng ký cho đi học tại trường tiểu học gần chùa. Ngoài giờ học ở trường, cháu được sinh hoạt, dạy dỗ tại chùa cùng với các chú tiểu khác. Bé T. nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống trong chùa.
Mọi chuyện cứ thế trôi đi, cho đến cuối năm 2020 ni sư đến chùa đón T. về tịnh xá ăn Tết cùng với mình. Sau Tết, khi cháu bé trở lại chùa, dường như đã có những thay đổi nhất định. Theo sư thầy, cháu T. đã đánh mất những nếp sinh hoạt học tập trước kia và trở nên khó bảo hơn. Cho rằng nguyên nhân có thể là cuộc gặp gỡ với ni sư đã tác động đến nhận thức và tâm tính của T., từ đó mỗi lần ni sư muốn thăm hỏi gặp gỡ cháu, sư thầy tìm cớ thoái thác.
Ni sư cảm thấy đứa trẻ đỏ hỏn ngày nào được mình chăm sóc nuôi dưỡng giờ đây ngày một rời xa vòng tay mình nên không chấp nhận điều đó. Sau nhiều lần thương thảo bất thành, ni sư yêu cầu chấm dứt hợp đồng ủy quyền và sư thầy phải trả lại bé T. cho mình. Tuy nhiên, sư thầy một mực lắc đầu từ chối.
Đưa nhau đến chốn pháp đình
Cực chẳng đã, ni sư phải dùng biện pháp mạnh. Bà một mặt với tư cách là mẹ nuôi của bé T. được pháp luật thừa nhận đã đến trường tiểu học nơi bé đang học, làm thủ tục chuyển cháu về ngôi trường gần tịnh xá. Mặt khác ni sư tiếp tục đến chùa đòi người. Thế nhưng sư thầy sau nhiều năm nuôi dạy T. cũng quyến luyến nên một mực không trả. Cháu T. sau nhiều năm tháng quen sống với sư thầy và các sư huynh trong chùa cũng không muốn quay về Tịnh xá. Ni sư gõ cửa yêu cầu các cấp chính quyền và cả công an cơ sở can thiệp nhưng các cơ quan trên không giải quyết, cho rằng đây là quan hệ tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Ảnh minh họa: AI
Đối thoại không được, ni sư phải đi đến bước cuối cùng là khởi kiện ra Tòa án để giành quyền nuôi con. Tại phiên tòa sư thầy trình bày, cháu T. là trẻ bị bỏ rơi và được ni sư nhận làm con nuôi. Tuy nhiên theo sư thầy, ni sư lại không trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu mà thường giao việc đó cho người khác. Điển hình là việc ni sư đã ủy quyền cho sư thầy nuôi dưỡng cháu.
Đầu năm 2020 ni sư vào chùa dẫn cháu về chơi Tết, khi trở về cháu có nhiều biểu hiện lạ, không được vui vẻ và khó dạy hơn trước. Chính vì lẽ đó, đầu năm 2021 khi bà C. (tên thật của ni sư) đến đòi dẫn cháu về Tịnh xá chơi Tết nhưng ông H. (tên thật của sư thầy) đã không đồng ý. Đầu tháng 4/2021 ni sư nhắn tin báo sẽ bắt cháu lại giao cho người khác nuôi làm ông H. rất sốc và không đồng ý, vì những lý do: Cháu Phan Đức T. là nam, theo quy định của giáo hội cần được ở chùa tăng để tiện nuôi dạy, chăm sóc.
Hiện cháu Phan Đức T. đã hơn 10 tuổi, sau nhiều năm sống với ông H., tình cảm gắn bó thân thiết, nay phải tách rời là một việc rất đau xót cho ông H. Bản thân cháu T. có nguyện vọng được tiếp tục sống với ông H. và rất sợ bị bắt đi nơi khác. Cháu T. cần có cuộc sống ổn định để phát triển thể chất, tâm lý bình thường, nếu mang cháu đi gửi hết nơi này đến nơi khác sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tinh thần của cháu. Cháu có những nhận thức riêng cần được tôn trọng. Từ nội dung trên, ông H. yêu cầu Tòa án xem xét cho cháu Phan Đức T. được tiếp tục ở lại chùa cùng với ông H…
Sau cùng, tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C. đối với ông H. Buộc ông H. có nghĩa vụ giao cháu Phan Đức T. cho bà C. trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Kháng cáo bất thành
Ngay sau đó, ông H. có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao trẻ Phan Đức T. cho ông H. là người trực tiếp nuôi dưỡng.
Tại tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà C. yêu cầu giữ nguyên án sơ thẩm về việc "Yêu cầu bảo vệ quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ đối với con chưa thành niên". Bà C. cho rằng, ông H. chỉ là người bà gửi cháu T. để tu học, tuy nhiên từ khi gửi cháu T. cho ông H. thì tính tình cháu T. thay đổi không nghe lời bà nữa, thậm chí quay sang chối bỏ quan hệ mẹ - con, đó là điều làm bà rất đau lòng, bởi bà đã nuôi dưỡng cháu từ lúc sơ sinh, yêu thương hết lòng. Sau nhiều năm gửi cháu T. cho thầy H. nuôi dưỡng, bà C. không được gặp và bà rất nhớ thương con. Do ông H. ngăn cản không cho bà gặp con, cháu T. thay đổi tính tình theo hướng tiêu cực nên bà không còn nguyện vọng gửi cháu T. cho ông H. trông nom và cho cháu theo ông H. tu học nữa. Vì những lý do trên, bà yêu cầu ông H. giao trả lại cháu để bà là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. theo quy định pháp luật.
Hội đồng xét xử xét thấy bà C. và ông H. vốn là những người đã xuất gia tu hành, trẻ Phan Đức T. là trẻ mồ côi bị gia đình bỏ rơi từ nhỏ, cả bà C. và ông H. đều có nguyện vọng là người nuôi dưỡng trẻ T. là xuất phát từ lòng từ bi, bác ái, yêu thương của những người tu hành đối với trẻ nhỏ. Tuy nhiên việc giao trẻ chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ và nhất là phải phù hợp pháp luật.
Ông H. cho rằng việc bà C. là nữ giới nên việc chăm sóc, giáo dục trẻ T. là nam giới thì không phù hợp cho sự phát triển tâm sinh lý của trẻ T. và phạm vào điều cấm của Giáo hội Phật giáo là không có căn cứ. Bởi lẽ trẻ T. hiện nay vẫn là trẻ em cần được chăm sóc, bảo vệ, yêu thương, nuôi dưỡng của người lớn, hơn nữa mối quan hệ nhân thân giữa bà C. và trẻ T. là quan hệ mẹ - con chứ không phải giữa tăng và ni.
Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C. đối với ông H. Buộc ông H. có nghĩa vụ giao cháu Phan Đức T., cho bà C. trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Kết thúc phiên tòa, cháu T. lặng lẽ khoác túi đồ màu nâu theo ni sư trở về Tịnh xá, nước mắt ngắn dài. Ở ngôi chùa cũ, không gian vốn yên tĩnh nay càng thêm trống vắng khi thiếu bóng dáng đứa trẻ từng ngày vui đùa.
3 con người mang trong mình những day dứt riêng. Vụ án khép lại bằng phán quyết pháp lý nhưng dư âm về tình thương, sự gắn bó và những mất mát tinh thần vẫn còn đó, như một lát cắt đầy trăn trở về số phận của những đứa trẻ bị bỏ rơi.












