Minh bạch hóa chính sách EPR: Thúc đẩy sản xuất bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh
Việc xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, khả thi cho chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đang trở thành yêu cầu cấp thiết, giúp doanh nghiệp tiết kiệm tài nguyên, gia tăng hiệu quả sản xuất và từng bước chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn.
Vừa qua, Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD) phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức hội thảo phổ biến các quy định về EPR, đồng thời lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Nghị định mới quy định chi tiết chính sách này.

Ảnh minh họa.
Tại sự kiện, ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ Môi trường cho biết, EPR là một công cụ chính sách quan trọng, góp phần định hình mô hình sản xuất có trách nhiệm thông qua việc thu hồi, tái chế và xử lý sản phẩm, bao bì sau sử dụng.
Việt Nam đã tiếp cận chính sách EPR từ khá sớm, bắt đầu từ Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị năm 2004 và từng bước cụ thể hóa qua các Luật Bảo vệ môi trường các năm 2005, 2014, đặc biệt là Luật năm 2020 trong đó lần đầu tiên quy định cụ thể tỷ lệ tái chế bắt buộc và cơ chế đóng góp tài chính cho những sản phẩm khó tái chế.
Tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách EPR vẫn còn gặp nhiều khó khăn do quy định còn phân tán, thiếu đồng bộ, nhận thức chưa thống nhất giữa các bên liên quan, cùng với việc thiếu các cơ chế thực thi hiệu quả.
Trước tình hình đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề xuất xây dựng một nghị định riêng, nhằm hợp nhất các quy định liên quan đến EPR, thiết kế lại cơ chế tài chính, tăng cường tính minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Dự thảo nghị định đang được xây dựng theo hướng chi tiết hóa các quy định về tỷ lệ tái chế, hình thức thực hiện trách nhiệm và cơ chế hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Theo ông Thịnh, đây sẽ là nền tảng pháp lý vững chắc để thúc đẩy mô hình phát triển xanh, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả trong thực tiễn triển khai.
Đồng quan điểm, ông Võ Tân Thành, Phó chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh rằng, EPR không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là động lực để doanh nghiệp tái cấu trúc mô hình sản xuất theo hướng tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải và gia tăng khả năng cạnh tranh.
Việc minh bạch hóa và đơn giản hóa các quy định về EPR sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động thực hiện trách nhiệm môi trường một cách hiệu quả và phù hợp với năng lực thực tế.
Ở góc độ doanh nghiệp, bà Phạm Trúc Thanh, Giám đốc Phát triển bền vững Công ty HEINEKEN Việt Nam cho biết, EPR là một chính sách thiết yếu để thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn.
Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là việc thiếu hệ thống hạ tầng thu gom, phân loại và công nghệ tái chế hiện đại.
Theo bà Thanh, để thực hiện EPR hiệu quả, cần có sự phối hợp đồng bộ từ phía chính sách, truyền thông, và hỗ trợ tài chính để tăng tỷ lệ thu gom, giảm thất thoát tài nguyên và đẩy mạnh tái chế khép kín.
Từ phía doanh nghiệp tái chế, ông Lê Anh, Giám đốc Phát triển bền vững Công ty CP Nhựa tái chế Duy Tân chia sẻ rằng đơn vị này là doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng công nghệ tái chế “chai ra chai” (bottle-to-bottle) với công suất 60.000 tấn/năm.
Dù vậy, việc phân loại rác tại nguồn còn yếu khiến chi phí xử lý của doanh nghiệp tăng cao. Ông đề xuất cần chuẩn hóa hệ thống phân loại rác, đồng thời có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ và vận hành hiệu quả.
Theo dự thảo Nghị định, doanh nghiệp có hai hình thức thực hiện trách nhiệm tái chế. Thứ nhất là tự tổ chức tái chế, có thể bằng cách trực tiếp thực hiện, thuê đơn vị chuyên trách, ủy quyền cho tổ chức trung gian hoặc phối hợp các hình thức này.
Thứ hai là đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam nếu không trực tiếp thực hiện tái chế. Việc giải ngân quỹ sẽ dựa trên khối lượng tái chế thực tế, bảo đảm công khai, minh bạch và tránh cơ chế “xin - cho”.
Đáng chú ý, UBND các tỉnh, thành sẽ là đối tượng nhận hỗ trợ để tổ chức công tác thu gom, xử lý chất thải tại địa phương, với mức hỗ trợ căn cứ vào nhu cầu và năng lực triển khai.
Dự thảo nghị định cũng đề xuất nhiều điều chỉnh quan trọng như: miễn trừ trách nhiệm tái chế bao bì với các sản phẩm đặc thù như kẹo cao su; cho phép bảo lưu khối lượng tái chế từ năm trước sang năm sau nếu doanh nghiệp đã hoàn thành vượt mức kế hoạch; và điều chỉnh thời điểm thực hiện trách nhiệm tái chế dựa trên sản lượng thực tế thay vì áp dụng ngay từ đầu năm.
Chính sách EPR chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2024 với các nhóm sản phẩm như pin, ắc quy, dầu nhớt, săm lốp và bao bì. Từ năm 2025, các sản phẩm điện, điện tử sẽ bắt đầu chịu trách nhiệm tái chế, với thời điểm triển khai từ năm 2026.
Tỷ lệ tái chế bắt buộc sẽ được xác định dựa trên vòng đời sản phẩm, khả năng thu gom, điều kiện kinh tế - xã hội và mục tiêu quốc gia về môi trường.
Nhà sản xuất có thể tái chế sản phẩm của chính mình hoặc sản phẩm cùng loại do đơn vị khác sản xuất, nhưng không được tính phế liệu nhập khẩu hoặc chất thải nội bộ trong sản xuất vào tỷ lệ tái chế bắt buộc.
Ông Nguyễn Tiến Huy, Giám đốc Văn phòng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (VCCI) cho biết, VCCI sẽ tiếp thu đầy đủ các ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường để hoàn thiện dự thảo Nghị định.
Song song đó, VCCI cũng sẽ đẩy mạnh truyền thông, đào tạo và triển khai các mô hình kinh tế tuần hoàn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện chính sách EPR một cách hiệu quả, góp phần giảm phát thải, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững.