Một góc nhìn lạc quan hơn về tỷ giá
Các nỗi lo về tỷ giá không quá căng thẳng như thị trường nghĩ, theo chuyên gia của UOB.

Tỷ giá gặp áp lực lớn trong khoảng thời gian đầu tháng 9. Ảnh minh họa.
Trong bối cảnh áp lực tỷ giá rõ rệt hơn trong suốt một tháng qua, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn có buổi trao đổi với ông Đinh Đức Quang, Giám đốc Khối kinh doanh tiền tệ Ngân hàng UOB Việt Nam, nói nhiều hơn về những yếu tố tích cực trên thị trường ngoại hối.
KTSG Online: Fed vừa chính thức giảm lãi suất, ông có bình luận gì về xu hướng này?
- Ông Đinh Đức Quang: Quyết định hạ lãi suất của Fed đã được thị trường dự đoán từ trước, với mức kỳ vọng gần như 100%. Thực tế đồng đô la đã suy yếu trước đó, và xu hướng này có thể kéo dài đến cuối năm, đặc biệt nếu Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất trong các cuộc họp còn lại.
Tiền đồng có thể mạnh lên so với đô la nhưng mức độ sẽ không bằng các đồng tiền ASEAN khác. Nguyên nhân là vì Việt Nam có độ phụ thuộc lớn vào xuất khẩu, nên một đồng tiền yếu hơn lại hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu. Ngoài ra, dòng vốn chảy ra, nhu cầu đầu tư vào tiền mã hóa và vàng cũng gây sức ép lên tiền đồng. Nhìn chung, tiền đồng sẽ tăng giá nhẹ, song chậm hơn so với nhiều đồng tiền trong khu vực.
Tỷ giá từ đầu năm tới nay tăng khoảng 3,5%, trong khi chỉ số DXY giảm 10%. Nhiều người thắc mắc vì sao đô la Mỹ và Việt Nam lại ngược chiều nhau, thưa ông?
Mặt bằng lãi suất so với đô la Mỹ ở mức thấp và là nguyên nhân đầu tiên gây cái áp lực mạnh mẽ đến tỷ giá. Từ năm 2024 cho đến nay lãi suất tiền dồng gần như rất ổn định ở mức thấp, trong khi lãi suất đô la Mỹ là 5%, dù có giảm trong năm ngoái nhưng vẫn cao hơn 4%.
Chúng ta có thể thấy lãi suất tiền đồng hiện đang loanh quanh chỉ ngang bằng với lãi suất đô la Mỹ, trong khi nền kinh tế sức mạnh tương quan hai nền kinh tế là rất khác biệt.
Lý do thứ hai là trong tổng thể các quốc gia đang phát triển, Việt Nam là nền kinh tế có độ mở rất lớn, tức kim ngach xuất nhập khẩu so với GDP. Vì vậy mức độ tổn thương, cũng như tác động của các diễn biến bất định trên thế giới đến Việt Nam sẽ tương đối lớn. Khi xung đột thế giới, vấn đề thuế quan chưa rõ ràng và chưa có đánh giá nào khác, quan ngại của các nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam có xu hướng cao hơn các thị trường khác.
Lý do thứ ba là động thái bán ròng liên tục trên thị trường chứng khoán trong suốt 3 năm qua. Một mặt là vì chúng ta là thị trường cận biên, Việt Nam nhắc đến câu chuyện nâng hạng nhưng cũng chưa chắc chắn, mặt khác là vì thị trường bên ngoài như chứng khoán Mỹ lại hấp dẫn. Như vậy, cần nhìn nhận rằng không phải là vì chúng ta quá yếu mà là các thị trường phát triển như Mỹ, Nhật đang tăng trưởng quá tốt, từ đó gây áp lực trở lại.

Ông Đinh Đức Quang, Giám đốc Khối kinh doanh tiền tệ Ngân hàng UOB Việt Nam. Hình: DNCC.
Nhưng nếu so sánh gần đây thì tiền đồng lại giảm giá trong khi một số đồng tiền trong khu vực lại tăng giá. Có yếu tố nào khác đằng sau không, thưa ông?
Một khía cạnh mà tôi nghĩ chúng ta nên nhìn nhận lạc quan hơn khi nói về tỷ giá, là đặt sự biến động trong một khoảng thời gian dài thay vì ngắn hạn. Ví dụ như trong vòng 5 năm qua thì tiền đồng chỉ giảm giá khoảng 14% so với đô la Mỹ. Khoảng đầu năm 2021 thì tỷ giá tầm 23.000 nay lên 26.400. Như vậy trung bình mức độ giảm giá chỉ khoảng 2-3% mỗi năm.
Nếu so với các đồng tiền khác trong khu vực cùng khoảng thời gian như đồng yen Nhật Bản giảm 30%, đồng won giảm 20%, đồng rupi của Indonesia giảm khoảng 15%. Đương nhiên cũng có những thị trường có hiệu suất tốt như Thái Lan hay Malaysia thì đồng tiền không mất giá. Như vậy, tiền đồng hiện ở mức trung bình trong khu vực. Chúng tôi đánh giá cao cơ chế can thiệp cũng như cách quản lý hiện nay của cơ quan nhà nước.

Diễn biến tỷ giá đồng đô la Mỹ so với các đồng tiền khác trong khu vực. Tỷ giá tiền đồng đi lên trong khi các đồng tiền khác có xu hướng đi xuống kể từ đầu năm.
Một lo ngại khác được nhắc nhiều đến trong thời gian qua là quỹ dự trữ ngoại hối, ông có bình luận gì thêm?
Quỹ dự trữ ngoại hối ước khoảng trên 80 tỉ đô la, đủ cho hơn 2 tháng nhập khẩu. Quỹ dồi dào là yếu tố tạo dựng lòng tiền cho nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên nếu đặt câu hỏi liệu có lo ngại nào về rủi ro thì chúng tôi cho rằng không.
Lý do vì thực tế hiện nay hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam chủ yếu là gia công, tức nhập khẩu nguyên vật liệu về sau đó xuất khẩu sản phẩm gia công. Như vậy rõ ràng phần hóa hàng nhập về không dành cho tiêu dùng. Khi nhập về thì chúng ta biết chắc rằng sẽ có nguồn thu từ xuất khẩu.
Vậy nên chúng tôi ước tính để tính tiêu dùng thì con số phải lớn hơn hiện tại rất nhiều, có thể lên đến 7-8 tháng. Vì vậy chúng tôi nhìn nhận đây chưa phải là yếu tố quá rủi ro để phải lo lắng.
Một phần nữa cũng do kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đang tăng rất nhanh. Năm nay cũng có thể lần đầu tiên chúng ta đạt con số hơn 800 tỉ đô la Mỹ. Việt Nam cũng đang tập trung nhiều vào việc thu hút FDI.
Thế còn yếu tố lạm phát thì sao thưa ông?
Hiện chúng tôi cũng không thấy có yếu tố nào để chuyển trạng thái chính sách tiền tệ từ nới lỏng hiện nay sang thắt chặt vì chúng ta vẫn đang kiểm soát được lạm phát. Đây là điểm mấu chốt.
Nếu nhìn sang cấu phần lạm phát thì nhiều yếu tố Việt Nam đang kiểm soát được, chẳng hạn như lương thực thực phẩm. Lạm phát đang tập trung vào câu chuyện chi phí y tế, giáo dục. Hiện nay, chính phủ cũng đang từng bước sử dụng ngân sách để hỗ trợ một phần cho giá cả. Vì vậy chưa có rủi ro lớn cho áp lực lạm phát.
Thế giới đang bước vào xu hướng giảm lãi suất, ông nghĩ gì về dư địa của Việt Nam?
Chu kỳ giảm lãi suất của thế giới bắt đầu từ đầu năm 2025 đến nay, trong đó các nước quan ngại về tác động tiêu cực của thuế quan đến tăng trưởng. Thực tế đã có rất nhiều ngân hàng trung ương bắt đầu giảm lãi suất. Việt Nam vẫn đang gặp áp lực tỷ giá nên tìm các giải pháp khác để tăng cung tiền vào thị trường, chứ chưa chính thức cắt giảm lãi suất chính sách.
Chúng tôi dự báo tiền đồng sẽ đạt đỉnh trong quí 3 năm nay, cũng như các điều kiện hỗ trợ tốt cho tiền đồng sẽ quay trở lại. Mặt bằng lãi suất từ nay đến cuối năm vẫn sẽ duy trì ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng. Tuy nhiên, thời điểm này chưa phải là để cắt giảm lãi suất chính sách.
Dù vậy, trong kịch bản tích cực khi Mỹ giảm lãi suất mạnh mẽ, khoảng 75-100 điểm trong năm nay và đưa ra dấu hiệu rõ ràng tiếp tục giảm trong năm 2026, tức đưa mặt bằng lãi suất đô la về vùng 3,5-4%, thì chúng tôi tin rằng vào những tuần cuối cùng của năm 2025, NHNN có thể bắt đầu cắt giảm lãi suất chính sách. Mức giảm khoảng 50 điểm cơ bản, để tạo động lực cho tăng trưởng trong năm 2026.
Cuối cùng, đâu là biến số vĩ mô chúng ta nên chú ý thêm vào cuối năm nay?
Tăng trưởng tín dụng toàn ngành tính đến hết tháng 8 khoảng 11%, mức rất cao so với cùng kỳ. Nếu tiếp tục thì khả năng toàn thị trường cuối năm có thể lên tới 20%. Chúng tôi nhận thấy nhu cầu vốn của các doanh nghiệp vào cuối năm cũng sẽ tiếp tục.
Tình hình sẽ còn phụ thuộc vào kết quả cuối năm, trong đó có lĩnh vực xuất khẩu mà chúng ta đạt được kết quả tốt thời gian qua. Tuy nhiên, thị trường Singapore mới đây vừa công bố kết quả không tốt, phát tín hiệu cho các dự báo tiếp theo.
Chúng ta cần quan sát thêm vì hoạt động thương mại có thể chậm lại cuối năm, sau khi đã đẩy mạnh sản xuất và giao hàng trong những tháng qua để tránh thuế quan. Báo cáo chỉ số PMI tháng vừa qua cũng cho thấy hoạt động sản xuất vẫn loanh quanh ở mức 50 điểm, tức chưa có tín hiệu tăng trưởng vượt trội. Động lực tăng trưởng cuối năm vẫn cần các câu chuyện liên quan đến việc giải ngân và triển khai các dự án đầu tư công.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/mot-goc-nhin-lac-quan-hon-ve-ty-gia/