Một thoáng vui buồn trên cù lao Biện
Về tắm biển và vãng cảnh trên bán đảo Nghi Sơn trong tôi niềm vui không ít bởi những cảnh đẹp trù phú nên thơ tưởng như không vướng bụi trần của viên ngọc thô ở miền đất cực Nam xứ Thanh. Nhưng đâu đó, trong sâu thẳm lòng mình vẫn nhói lên một nỗi buồn về sự vắng bóng mất dạng, biệt tăm của những dấu tích rất giàu giá trị nhân văn của thời huyền sử.

Một góc làng chài Nam Sơn, phường Nghi Sơn
Từ trạm đèn Biển Sơn nhìn quanh bốn phía chúng tôi thấy bán đảo Biện Sơn (phường Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa) hiện ra giống như một cánh tay khổng lồ vươn về phía biển, ôm gọn vào lòng một vụng nước xanh màu ngọc bích rất đẹp. Cũng trên ngọn đèn biển ấy, chúng tôi trông về phía cầu cảng đang chạy ra xa, phía ngoài vụng nước mênh mông xanh màu ngọc bích, thấy khu kinh tế Nghi Sơn nổi bật lên những khu phố hiện đại với các nhà máy nhiệt điện, nhà máy lọc dầu và nhà máy xi măng, từng nổi tiếng cả nước.
Nhìn về phía bãi Đông, trước mắt chúng tôi là một bờ biển cát vàng mịn màng trải dài dưới chân núi gập ghềnh thác đá, sóng xô trắng xóa, bên cạnh rừng dương xanh biếc, còn nguyên vẹn vẻ hoang sơ như lúc ban đầu. Cảnh vật cứ vậy mà giống như một bức tranh đa sắc bày ra trước mắt người ta; khi thì nhộn nhịp, trẻ trung, náo nhiệt với dáng dấp của một thành phố công nghiệp; lúc lại man mác, trầm mặc, duyên dáng tựa một bức tranh thủy mặc sơn thủy hữu tình. Tất cả những cảnh sắc ấy khiến cho hòn đảo Nghi Sơn trong buổi chiều hôm toát lên một vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình khiến cho không ít người bị níu chân, hút hồn mà quên mất lối về.
Non nước Biện Sơn thoạt nhìn là như vậy đấy. Miền đất này từ xưa đã được biết đến và ghi chép khá rõ ràng. Trước khi có tên gọi là Nghi Sơn, từ thế kỷ XI, dải đất hình cánh tay khổng lồ vươn ra biển này được gọi là Biện Sơn, cù lao Biện. Tên gọi này dường như trong dân gian không thay đổi cho dù về hành chính, theo thời gian cũng có nhiều biến đổi. Ví như, thời nhà Hán đô hộ, thuộc huyện Cư Phong quận Cửu Chân; thời Tam Quốc, nằm trong huyện Thường Lạc; thời Tùy Đường là huyện An Thuận; các thời Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý, tên gọi được giữ nguyên; thời Trần - Hồ là huyện Cổ Chiến, sau lại đổi tên là Cổ Bình.
Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469) vua Lê Thánh Tông đặt tên là Ngọc Sơn, bắt nguồn câu nói: “Ngọc Sơn trung tú vạn niên cơ”, nghĩa là Ngọc Sơn tập trung cảnh đẹp có nguồn gốc vạn năm; tên gọi Ngọc Sơn được giữ mãi đến đầu thời Nguyễn; năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), phần đất Ngọc Sơn kết hợp với Nông Cống, Quảng Xương gộp lại thành phủ Tĩnh Gia.
Sau Cách mạng tháng Tám, năm 1945, phần đất Biện Sơn này thuộc huyện Tĩnh Gia; năm 2020, Quốc hội thành lập thị xã Nghi Sơn, trong đó có báo đảo Biện Sơn; tháng 7 năm 2025, sau giải tán huyện, phường Nghi Sơn mới là tên gọi hành chính của các xã Nghi Sơn, Hải Hà và phường Hải Thượng của thị xã Nghi Sơn trước đó.
Ngoài ghi chép của chính sử, vùng đất Biện Sơn này cũng xuất hiện trong huyền sử với sự tích về An Dương Vương và chuyện tình Mỵ Châu với Trọng Thủy. Theo truyền thuyết, khi An Dương Vương cùng Mỵ Châu bị Triệu Đà đuổi đến giếng Ngọc ở Biện Sơn thì được thần Kim Quy hiện lên mách bảo. An Dương Vương liền rút gươm quay lại chém Mỵ Châu rồi rẽ nước đi ra biển. Trọng Thủy tìm vợ đến giếng Ngọc thì hiểu rõ sự tình nên đã ân hận mà nhảy xuống giếng tự tử. Máu Mỵ Châu hòa vào nước biển, trai ăn nước ấy biến thành ngọc trai. Ngọc trai rửa nước giếng Ngọc trở thành trong sáng khác thường.
Trước đây, dưới chân núi Ngọc vẫn còn giếng Ngọc, chứng nhân của thiên tình sử đầy ai oán thời Âu Lạc. Gần giếng Ngọc, nhân dân thời trước có dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ công chúa Mỵ Châu. Sự kiện này trong sách “Đại Nam Nhất thống chí” có chép lại như sau: “Hòn Biện Sơn ở ngoài cửa Bạng bảy dặm thuộc huyện Ngọc Sơn, nổi vọt lên ở giữa biển; dưới núi về phía Tây Nam có giếng Tẩy ngọc (rửa ngọc), trên đỉnh núi phía Bắc có đền Mỵ Nương công chúa, dưới đền là vũng Ngọc, sản xuất ngọc trai. Đời Lê có đặt trường lấy ngọc ở đây”.

Phong cảnh chợ cá Nam Sơn, phường Nghi Sơn trong buổi sớm mai
Chung tôi nhắc lại đôi điều về lịch sử liên quan đến vùng đất này như thế để thấy rằng Biện Sơn là một vùng đất cổ. Không những thế, trong trường kỳ lịch sử, nơi này cũng từng giữ một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Ví như, năm 1789, vua Quang Trung từng lấy Biện Sơn làm căn cứ của thủy quân và phối hợp cùng các cánh quân trên bộ làm thành phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn để vừa phòng thủ vừa kéo quân ra Thăng Long đập tan quân xâm lược nhà Thanh.
Hiện nay trên núi đảo Biện Sơn vẫn còn đó không ít dấu tích của đội quân thần tốc nhà Tây Sơn để lại qua các giếng nước, súng thần công và một số đoạn tường nhỏ hay cổng thành còn xót lại ở Thành Đồn, Thành Hươu và Thành Nguyệt. Nói ra là vậy nhưng thực tế cách đây mấy chục năm về trước, khoảng những thập niên cuối của thế kỷ trước, Nghi Sơn vẫn là vùng đất nghèo khó. Miền đất này vốn bị ảnh hưởng nặng nề bởi gió Lào cát trắng kết hợp với đất ngập mặn, nhiễm phèn nên rất khó làm ăn, chỉ có những rừng sú, rừng vẹt mọc hoang mọc dại.
Người dân ở Biện sơn chủ yếu vẫn mưu sinh bằng nghề đi biển. Cái đói, cái nghèo đeo bám cù lao Biện Sơn dai dẳng. Chẳng thế, phương ngữ vùng này mới có câu: “Nhất Xương, nhì Gia, thứ ba Hậu Lộc” (nhất Xương - huyện Quảng Xương; nhì Gia - huyện Tĩnh Gia, trong đó có Nghi Sơn; thứ ba Hậu Lộc - huyện Hậu Lộc; ba huyện này thuộc tỉnh Thanh Hóa) để nói về những nơi nghèo khó vào loại bậc nhất của xứ Thanh lúc đương thời.
Bây giờ Biện Sơn không còn là xã đảo như ngày trước nữa mà đã lên phường, tức là phố, phố biển Nghi Sơn. Gọi là phố nhưng Nghi Sơn vẫn có làng, các làng chài, mà người ta vẫn quen gọi (thích dùng) từ làng hơn phố. Thực tế, năm 1997, Chính phủ đã quy hoạch Khu công nghiệp Nam Thanh - Bắc Nghệ, theo đó là Khu kinh tế Nghi Sơn ra đời và đánh dấu một cuộc “lột xác” của bán đảo Biện Sơn. Nhưng đó cũng vẫn chỉ là bề nổi của Nghi Sơn.
Ngoài khu kinh tế với các nhà máy hiện ra như những cụm công nghiệp hiện đại ở phía bên kia vụng biển Ngọc Úc (còn gọi là Vũng Ngọc) thì phần còn lại bên này của bán đảo Nghi Sơn vẫn là các vạn chài đích thực. Ở những làng chài này cuộc sống lao động của người dân vẫn như hàng trăm năm trước, vươn biển ra khơi đánh cá, mỗi sớm mai thức dậy, trên bến dưới thuyền vẫn “lao xao chợ cá làng ngư phủ”.
Phố phường Nghi Sơn vẫn những con ngõ vừa nhỏ, vừa sâu, vừa dài với những bậc cầu thang ngoằn ngoèo đi trên vách núi; không có cái náo nhiệt, xô bồ như nơi thị thành vốn có. Thậm chí, trong tận hang cùng ngõ hẻm của mỗi xóm thôn, nơi nào người ta cũng thấy toát lên cái hương vị mặn mòi, đặc trưng của nghề đi biển. Và phía bên kia núi Ngọc là bãi Đông. Một bãi biển mềm mại, dịu dàng tựa như áng tóc của nàng thiếu nữ buông hờ; mặc cho sóng, gió đưa đẩy; kệ cho mưa, nắng dãi dầu mà giữ nguyên vẹn những nét thô giáp, hoang sơ. Và rồi một ngày đẹp trời nào đó gần đây, khi người ta thấy chán ngán những cảnh xô bồ, chen chúc của Cửa Lò hay Sầm Sơn ở cách đó không xa thì chợt nhớ đến Biện Sơn và phát hiện ra nàng thiếu nữ bãi Đông vẫn đang say sưa giấc nồng. Thế rồi, họ đưa nhau tìm đến với một khoái cảm vô cùng thích thú.
Quả vậy, biển bãi Đông không ồn ào, tấp nập như những bãi biển nổi tiếng khác. Nó vẫn còn giữ được nguyên vẹn những nét dịu dàng, duyên dáng như những gì vốn có từ thủa bình minh với những dải núi cao ôm ấp biển dài; sóng cả ngàn năm vẫn còn đang reo hò, đùa vui trên những bãi đá gập ghềnh trải ra dưới khắp chân núi; từng rặng phi lao rì rào trên những dốc núi thoai thoải và những bờ cát vàng mịn vẫn như lặng lẽ, mơ màng soi bóng trên mặt biển biếc mênh mông.
Hàng trăm, hàng ngàn con sóng to nhỏ; khi thì nhẹ nhàng, từ tốn lăn sóng; lúc lại ồn ào, vội vã tung bọt trắng xóa như thể chồm lên giật hết cát đá trên bờ đem về với biển khơi vô tận. Kể vậy, không phải bãi Đông không có bàn tay bàn tay của con người động đến. Ngay bên bờ biển, nơi có những bãi tắm, bờ đá đẹp vào loại tốp đầu ở miền Bắc chúng tôi thấy có sự khai thác không ít của bàn tay con người. Nhưng tất cả các sự khai thác ấy đều dựa trên nguyên tắc tôn trọng và hài hòa với cảnh sắc của thiên nhiên. Bãi tắm ở bãi Đông ở khá xa khu dân cư nên không có nước thải sinh hoạt đổ xuống. Ở bãi Đông có khách sạn và nhiều nhà nghỉ nhưng tất cả đền nằm xa bãi tắm, ở bên kia núi Ngọc. Bên bãi biễn đẹp như thiên đường ấy chỉ có một khu sinh thái duy nhất là resort Eco Island.
Cái khu sinh thái này không có tòa ngang dãy dọc bằng bê tông cốt thép cao chọc trời bao bịt mặt biển mà chỉ có những ngôi nhà sàn bằng tre, bằng gỗ hay các bungalow kết hợp mái lợp bằng lá cọ khô. Những ngôi nhà hay các bungalow được bố trí thấp thoáng bên bờ biền như những chòi ngắm sóng hay ẩn mình trên các sườn non, dưới những rặng dương xanh biếc, rì rào trong gió. Và bao quanh bãi biển là con đường làm bằng các ván gỗ, rộng chừng hơn một mét, uốn lượn bên bờ biển, dưới chân núi Ngọc, trên những ghềnh đá làm thành những điểm check-in thú vị cho người thích sống ảo.
Từ dưới bãi tắm nhìn lên núi Ngọc người ta thấy thấp thoáng, điểm xuyết những ngôi nhà nho nhỏ màu nâu của tre, gỗ với mái lá cọ ngả màu thời gian. Những ngôi nhà ấy ẩn hiện giữa trập trùng màu xanh của muôn vàn cây lá trên sườn núi; gợi lên cái cảm giác hài hòa, gần gũi của con người với thiên nhiên và nhất là trong khung cảnh của núi non, biển biếc điệp trùng.
Sự thay da đổi thịt của vùng đất cù lao Biện hiện rõ trên những phố phường hiện đại, trên các nóc nhà đỏ tươi ngói mới ở những vạn chài trên bán đảo cùng với những con thuyền sặc sỡ sắc màu ngày đêm trên biển ngày ra khơi, vào lộng. Tuy đổi thay nhưng cù lao Biện vẫn giữ được cái vẻ đẹp nên thơ, yên bình và không kém phần lãng mạn khiến bao người đến đây phải thổn thức trong mỗi buổi bình minh chào ngày mới hay khi hoàng hôn khuất dần phía sau rặng núi. Bình minh trên bãi Đông làm cho chân trời trên vụng biển thêm rạng rỡ. Mặt trời đội biển với những tia nắng rực rỡ xé tan màn đêm mờ mờ ảo ảo. Theo thời gian, những tia nắng chói chang chan hòa trên mặt biển màu ngọc bích trở nên lấp lánh. Mặt nước màu mây làm thành cảnh sắc một màu gợi lên một màu xanh bất tận, tưởng chừng không giới hạn khiến người ta như lạc lối giữa chốn thiên đường và quên đi bao nỗi phiền muộn, lo toan.
Khác với khung cảnh ngày mới trên biển. Khi bóng hoàng hôn dần buông, đứng trên bãi Đông, người ta có cảm giác ánh sáng và bóng tối đang có cuộc vật lộn mà phần thắng nghiên về phía màn đêm. Khi ấy, những tia nắng cuối ngày yếu ớt nhuộm vàng trên mặt nước màu xanh khiến cho người ta có cảm giác nao lòng. Và rồi, mặt trời cứ như bị dồn dần về phía sau lưng quả núi. Lúc này, có vẻ, sau một ngày nô đùa với những bờ cát, ghềnh đá, sóng biển cũng đã trở mệt mỏi mà nhịp sóng trở thành uể oải, như muốn rút dần về phía khơi xa, để mặc cho bầu trời mặt nước mơ màng, chìm dần vào trong bóng tối.
Và khi màn đêm buông xuống, người ta có cảm giác như bị hòa tan vào trong bóng tối, bất chợt người ta thấy bóng dáng mình sao lại nhỏ bé đến lạ lùng, khi đó lòng người không khỏi man mác, bâng khuâng. Vậy đó thôi mà bãi Đông làm người ta say đắm, mê mẩn để rồi thấy yêu quý, nhớ mãi và biết trân trọng những thức quà lãng mạn, ngọt ngào vô giá của biển khơi đã ban tặng cho con người ở vụng biển được ví như viên ngọc thô còn xót lại ở cuối trời xứ Thanh. Chẳng vậy mà ca dao trong vùng không tiếc lời ngợi ca: “Biện Sơn biển bạc, rừng vàng/ Ai đi đến đó, lãng quên đường về”.

Trên ghềnh đá bãi Đông, phường Nghi Sơn
Truyền thống và vẻ đẹp của cù lao Biện Sơn như thế nhưng không phải là đã vẹn toàn. Dường như sự phát triển hiện đại của vùng đất Nghi Sơn đã vô tình đánh mất những giá trị truyền thống. Truyền thuyết An Dương Vương cùng mối tình của Mỵ Châu và Trọng Thủy như một lời nhắc nhở, cảnh tỉnh muôn đời hậu thế về bài học cảnh giác, giữ gìn bí mật quốc gia vẫn còn đó nhưng giếng Ngọc và miếu thờ công chúa dưới chân núi Ngọc, nằm bên bờ Ngọc Úc lại không còn nữa.
Cái giếng và miếu thờ trên bán đảo Biện Sơn kia đâu phải là những vật vô tri hay chỉ là sự giải thích về địa danh trên trang sách. Nó là chứng nhân cho thời thời kỳ bi thương của dân tộc. Hơn thế, giếng Ngọc và cái chết của Trọng Thủy còn là lời nhắc nhở cho những chàng trai nông nổi để trở thành kẻ sát vợ tàn nhẫn. Trọng Thủy gieo mình xuống giếng chính là sự thức tỉnh của lương tâm. Nỗi ân hận tuy có muộn màng những vẫn là một nét đẹp còn lại trong lương tri của tên gián điệp.
Miếu thờ Mỵ Châu nghe kể ở cách giếng Ngọc không xa, khoảng chừng vài chục mét là minh chứng cho tấm lòng bao dung của muôn đời người Việt. Dường như dân tộc Việt Nam dù có giận Mỵ Châu vì “Trái tim lầm chỗ để trên đầu” để “Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” thì trong lòng vẫn có một chút cảm thông, chia sẻ. Chính sự thấu hiểu bao dung đó mà người đời đã lập miếu thờ nàng như một sự giải oan cho tấm lòng trong trắng, thơ ngây lỡ mắc lỗi lầm của người con gái nhẹ dạ và cũng là sự nhắc nhở, cảnh tỉnh muôn đời cho những người con gái. Nhưng hỡi ôi, những tồn tại vật chất ấy hiện giờ chỉ còn trong trang sách và ký ức người dân bản địa.
Đến bán đảo Nghi Sơn, dẫu biết trước là giếng Ngọc và miếu thờ Mỵ Châu không còn nhưng chúng tôi vẫn cố hỏi thăm tìm đến để chiêm bái cho dù đó chỉ là vùng cỏ mọc. Theo chỉ dẫn, chúng tôi đến chùa Biện Sơn để tìm (có tài liệu nói giếng Ngọc cách chùa Biện sơn khoảng hai trăm mét) nhưng người dân kẻ biết, người không. Đi mãi xuống chợ hỏi thăm bà hàng quán, bà bảo giếng Mỵ Châu, Trọng Thủy à? Rồi bảo đi ngược lại, ra phía con đê bên kia đỉnh dốc, phía bên trên khách sạn Đảo Ngọc. Hỏi mãi cuối cùng cũng đến. Người bảo vệ gác lối vào khu sinh thái Eco Island chỉ tay và bảo tôi, giếng Ngọc ở kia kìa, bên đường, phía sau cột điện đôi, gần ngã ba đi vào khu kinh tế Nghi Sơn. Tôi hỏi thêm về miếu thờ Mỵ Châu và nhận được cái lắc đầu và câu nói, mất rồi, không còn nữa đâu.
Than ôi! Những huyền tích một thời, suốt mấy ngàn năm sừng sững, gắn liền với câu chuyện dựng nước giữ nước hào hùng của dân tộc, in dấu trong câu chuyện kể của bao đời học sinh và được trao truyền qua ký ức của nhân dân bao đời nay đã bay mất một cách không thương tiếc. Hỡi ôi, từ nay, trai dưới biển Ngọc kia biết rửa nước giếng nào cho sáng?
Về tắm biển và vãng cảnh trên bán đảo Nghi Sơn trong tôi niềm vui không ít bởi những cảnh đẹp trù phú nên thơ tưởng như không vướng bụi trần của viên ngọc thô ở miền đất cực Nam xứ Thanh. Nhưng đâu đó, trong sâu thẳm lòng mình vẫn nhói lên một nỗi buồn về sự vắng bóng mất dạng, biệt tăm của những dấu tích rất giàu giá trị nhân văn của thời huyền sử. Giá như, giếng Ngọc và miếu thờ Mỵ Châu vẫn còn nguyên và cùng bao danh thắng khác của miền đất này há chẳng phải là tô điểm thêm cho vẻ đẹp của miền đất Ngọc. Đó chẳng phải có thêm một nơi cội nguồn đưa người ta tìm về để giáo dưỡng, thanh lọc tâm hồn đó sao?
Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/mot-thoang-vui-buon-tren-cu-lao-bien-a29636.html