Muốn hấp thụ vốn tốt, DNNVV phải mạnh lên cùng ngân hàng
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), hộ kinh doanh chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp, là 'xương sống' của nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh thực hiện mạnh mẽ Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, việc tháo gỡ khó khăn về vốn, khơi thông dòng tín dụng và tăng cường sức chống chịu cho khu vực này được coi là nhiệm vụ then chốt. Phóng viên Thời báo Ngân hàng có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Thân, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam về vai trò, thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng hấp thụ vốn cho DNNVV hiện nay.
Thưa ông, trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện tái cơ cấu mạnh mẽ hướng tới tăng trưởng cao hai con số, ông đánh giá như thế nào về vai trò DNNVV trong mục tiêu chung này?
Có thể thấy, khu vực kinh tế tư nhân mà lực lượng đông đảo là DNNVV đang vươn lên mạnh mẽ, đóng góp khoảng 50% GDP, 56% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, và đặc biệt là tạo ra hơn 82% việc làm. Trong đó, khối doanh nghiệp tư nhân trong nước chiếm tỷ trọng 28% GDP, cao hơn tất cả các khu vực kinh tế khác, bao gồm cả khối FDI. Điều này chứng tỏ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, phát luật của Nhà nước đối với khu vực này đã phát huy hiệu quả. Với khả năng đóng góp của kinh tế tư nhân chiếm tới 50% GDP như đã nêu, nếu khu vực này tăng trưởng bền vững ở mức 2 con số thì mục tiêu tăng trưởng trên 8% vào năm 2025 và 2 con số vào năm 2026-2030 chắc chắn thành công.

Ông Nguyễn Văn Thân, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Vừa qua, Nghị quyết số 68-NQ/TW ra đời là bước ngoặt quan trọng, thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc đưa khu vực kinh tế tư nhân, trong đó nòng cốt là DNNVV trở thành một trong những động lực chủ đạo của nền kinh tế. DNNVV với quy mô linh hoạt, năng lực thích ứng nhanh, chính là nguồn sáng tạo, đổi mới và phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, để lực lượng này thực sự bứt phá, cần sự đồng hành mạnh mẽ hơn của Nhà nước, của các bộ, ngành và toàn xã hội. Cụ thể, cần một hệ sinh thái hỗ trợ hoàn chỉnh từ chính sách pháp luật, tín dụng, đào tạo, chuyển đổi số đến kết nối thị trường để DNNVV có thể phát huy tối đa vai trò động lực của mình trong tăng trưởng bao trùm và bền vững. Trong đó, nguồn vốn chính là mạch máu và là động lực quan trọng cho DNNVV.
Ông nhận định ra sao về khả năng tiếp cận vốn của khu vực DNNVV trong thời gian qua, đặc biệt trong bối cảnh ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ?
Phải khẳng định rằng tiếp cận vốn luôn là vấn đề then chốt của DNNVV. Nói một cách công bằng, trong nhiều năm qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực rất lớn để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp. Từ trong giai đoạn khó khăn khi đại dịch Covid-19 bùng phát hay qua những cơn bão lũ, thiên tai, nền kinh tế gặp nhiều biến động cả trong và ngoài nước, NHNN đã thể hiện vai trò đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp khi ban hành nhiều chính sách, cơ chế, chỉ đạo các TCTD bằng nhiều giải pháp như tiết giảm chi phí hoạt động qua đó giảm lãi suất, phí dịch vụ, cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, khoanh nợ, giãn nợ… hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, vực dậy và phát triển trở lại. Có thể nói, trong giai đoạn khó khăn nhất, ngân hàng chính là “phao cứu sinh” giúp hàng trăm nghìn doanh nghiệp trụ vững và khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Hiện nay, trong tổng dư nợ hơn 6 triệu tỷ đồng của toàn nền kinh tế, 2,3 triệu tỷ đồng là cho khu vực DNNVV, chiếm gần 40%. Nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là nhóm NHTM Nhà nước đã thành lập bộ phận chuyên trách về DNNVV, thiết kế riêng các gói tín dụng ưu tiên, chương trình tư vấn tài chính, và phối hợp với Hiệp hội DNNVV tổ chức nhiều hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để lắng nghe, tháo gỡ vướng mắc.
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực đó, thực tế vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa chính sách và khả năng hấp thụ vốn thực tế. Một trong những nguyên nhân quan trọng là hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ phát triển DNNVV ở cấp trung ương và địa phương hiện nay hoạt động chưa hiệu quả. Quy mô vốn nhỏ, quy trình phức tạp, thẩm quyền phân tán khiến các quỹ này chưa thực sự trở thành “cánh tay nối dài” để hỗ trợ doanh nghiệp.
Mặt khác, nhiều DNNVV vẫn còn hạn chế về năng lực quản trị, minh bạch tài chính và hồ sơ vay vốn. Nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh cá thể chưa có báo cáo tài chính kiểm toán, thiếu kế hoạch kinh doanh khả thi. Chúng ta phải nhìn nhận rằng tăng trưởng tín dụng không thể bằng ý chí, mà phải dựa trên sức hấp thụ vốn thực chất của nền kinh tế và niềm tin giữa ngân hàng - doanh nghiệp. Và thực tế ngân hàng cho vay phải đảm bảo thu hồi nợ.
Để cải thiện khả năng hấp thụ vốn cho DNNVV trong thời gian tới, theo ông cần có giải pháp tổng thể nào từ phía Nhà nước, ngân hàng và bản thân doanh nghiệp?
Trước hết, phải khẳng định rằng mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp là mối quan hệ “cộng sinh”, hợp tác hai chiều. Muốn xích lại gần nhau, cả hai bên đều cần thay đổi cách tiếp cận. Doanh nghiệp phải chủ động nâng cao năng lực quản trị, minh bạch tài chính, còn ngân hàng cần cải tiến quy trình, công cụ thẩm định và đa dạng hóa hình thức cho vay.
Về phía các TCTD, theo tôi, cần đẩy mạnh cho vay theo phương thức điện tử, cho vay tín chấp dựa trên dữ liệu số, chấm điểm tín dụng tự động, và phát triển các sản phẩm tín dụng số phù hợp với quy mô DNNVV. Việc này vừa giảm thủ tục hành chính, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa tiếp cận nguồn vốn chính thức nhanh hơn, minh bạch hơn.
Cùng với đó, nên mở rộng vai trò của các quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, cho phép liên kết với các ngân hàng thương mại và Hiệp hội DNNVV để chia sẻ rủi ro tín dụng. Chính phủ cần có cơ chế giám sát và bổ sung vốn điều lệ cho các quỹ này, bảo đảm hoạt động thực chất, không hình thức. Việc củng cố vai trò của các quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ phát triển DNNVV cũng là một trong những nội dung quan trọng được nêu trong Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Tại Nghị quyết nêu rõ mở rộng đối tượng được bảo lãnh, giảm thiểu thủ tục hành chính, đồng thời minh bạch hóa quy trình giải ngân để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận. Hơn thế, các quỹ này cũng sẽ được phép cấp vốn trực tiếp, đặc biệt cho các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hoặc phát triển mô hình kinh doanh xanh, tuần hoàn. Chính sách không chỉ dựa vào ngân sách nhà nước mà còn đa dạng hóa nguồn vốn từ khu vực tư nhân, tổ chức tài chính quốc tế và doanh nghiệp lớn, từ đó mở rộng quy mô tài trợ và giảm áp lực lên ngân sách. Tôi kỳ vọng chính sách này sẽ sớm đi vào cuộc sống, được thực hiện một cách hiệu quả và quyết liệt để thêm kênh dẫn vốn cho DNNVV.
Về phía Nhà nước, Chính phủ sớm trình Quốc hội sửa đổi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó quy định cụ thể việc giảm thuế cho toàn bộ khu vực DNNVV để nuôi dưỡng nguồn thu, hỗ trợ doanh nghiệp tái đầu tư sản xuất - kinh doanh, nhất là trong bối cảnh xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do căng thẳng thương mại toàn cầu. Đồng thời, chuyển từ chính sách hỗ trợ dàn trải sang hỗ trợ chiều sâu - ưu tiên doanh nghiệp có định hướng chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và tham gia chuỗi cung ứng quốc tế. Cùng với đó là đơn giản hóa quy trình “hậu kiểm”, để doanh nghiệp yên tâm tiếp cận các chương trình hỗ trợ lãi suất, thuế và tài chính công mà không sợ rủi ro pháp lý.
Về phía doanh nghiệp, phải nỗ lực tự thân nhiều hơn, đầu tư quản trị, chuyển đổi số, cho minh bạch tài chính, tạo dựng niềm tin với tổ chức tín dụng. Khi doanh nghiệp mạnh hơn, có dự án khả thi, quản trị tốt, thì ngân hàng sẽ “dễ mở cửa” hơn.
Tôi tin rằng, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự điều hành linh hoạt của NHNN, hỗ trợ của TCTD và nỗ lực tự thân của cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta sẽ dần xóa được khoảng cách giữa người đi vay và người cho vay, nâng cao khả năng hấp thụ vốn, khơi thông dòng vốn. Từ đó, DNNVV sẽ thật sự trở thành động lực chủ đạo của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới.
Xin cảm ơn ông!