Ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam: Từ nơi lắp ráp đến trung tâm thiết kế và sáng tạo chip trong khu vực

Với những chuyển động tích cực gần đây, TS. Bùi Xuân Minh, Trưởng nhóm nghiên cứu Thiết kế bán dẫn và Công nghiệp 4.0 tại RMIT Việt Nam nhận định, tiềm năng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam rất đáng kỳ vọng.

TS. Bùi Xuân Minh, Trưởng nhóm nghiên cứu Thiết kế bán dẫn và Công nghiệp 4.0 tại RMIT Việt Nam. (Ảnh NVCC)

TS. Bùi Xuân Minh, Trưởng nhóm nghiên cứu Thiết kế bán dẫn và Công nghiệp 4.0 tại RMIT Việt Nam. (Ảnh NVCC)

Bán dẫn đang là một ngành công nghiệp “nóng” trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Ông đánh giá thế nào về vị thế hiện tại của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành bán dẫn?

Việt Nam đã là trung tâm bán dẫn toàn cầu với sự hiện diện của các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu trên thế giới. Theo thống kê năm 2024 của các cơ quan quản lý, có 174 dự án trong lĩnh vực bán dẫn tại Việt Nam với vốn đăng ký đầu tư khoảng 11,6 tỷ USD, mang lại doanh thu gần 18,2 tỷ USD.

Việt Nam hiện tham gia chủ yếu ở khâu lắp ráp, kiểm thử (OSAT) với sự đóng góp của những gã khổng lồ như Intel, Amkor và Hana Micron. Đây là phân khúc có giá trị gia tăng thấp nhất (giá trị gia tăng nội địa trong chuỗi giá trị bán dẫn bao gồm thiết kế, chế tạo, lắp ráp, đóng gói và kiểm thử).

Việt Nam đã và đang tiến sâu vào mảng thiết kế chip với sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia như Synopsys, Renesas, Marvel và Faraday và các doanh nghiệp trong nước như Viettel và FPT.

Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB), phần lớn hoạt động thiết kế chip hiện nay ở Việt Nam nằm ở phần thiết kế bố cục và kiểm tra thiết kế (backend), trong khi phần thiết kế cấu trúc, logic và IP (front-end) đòi hỏi trình độ chuyên môn cao đang trong giai đoạn phát triển.

So sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Singapore đã phát triển hoàn thiện hệ sinh thái từ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, lắp ráp và kiểm thử.

Trong năm 2023, tổng thu nhập từ bán dẫn của nước này là 101 tỷ USD. Singapore hỗ trợ 13,6 tỷ USD trong giai đoạn 2021-2025 cho quỹ nghiên cứu và phát triển (R&D), xây dựng cơ sở hạ tầng và ưu đãi thuế cho ngành này.

Trong khi đó, Malaysia đang phát triển thiết kế và chế tạo bán dẫn công suất cho xe điện và ứng dụng công nghiệp, cùng với hoạt động lắp ráp, kiểm thử đã có chỗ đứng quốc tế (chiếm 13% OSAT toàn cầu, xuất khẩu 136 tỷ USD vào năm 2023).

Nhìn chung, Việt Nam đang từng bước khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu, dù vẫn còn khoảng cách nhất định so với các nước dẫn đầu trong khu vực. Tuy nhiên, với những chuyển động tích cực gần đây, tiềm năng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam rất đáng kỳ vọng.

Như ông chia sẻ, tiềm năng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam rất đáng kỳ vọng. Ông có thể chia sẻ kỹ hơn về điều này? Việt Nam có những lợi thế nổi bật gì?

Theo tôi, Việt Nam có tiềm năng tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị bán dẫn. Ở khâu sản xuất với lợi thế sẵn có về cơ sở hạ tầng và công nghệ lắp ráp kiểm thử, Việt Nam có thể phát triển lĩnh vực đóng gói chip nâng cao như đóng gói tích hợp hệ thống.

Công nghệ này cho phép kết nối các tấm bán dẫn từ các công nghệ sản xuất khác nhau trên một bảng giao diện hoặc xếp chồng chúng theo phương thẳng đứng trong cùng một con chip. Phương pháp đóng gói tiên tiến này giúp giảm kích thước, tăng tốc độ truyền dữ liệu giữa các khối chức năng như bộ xử lý trung tâm, bộ nhớ, vào ra trong cùng một chip hệ thống tích hợp.

Việt Nam có tiềm năng tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị bán dẫn. Ở khâu sản xuất với lợi thế sẵn có về cơ sở hạ tầng và công nghệ lắp ráp kiểm thử, Việt Nam có thể phát triển lĩnh vực đóng gói chip nâng cao như đóng gói tích hợp hệ thống.

Việt Nam có triển vọng mở rộng thiết kế back-end và tiến sâu hơn vào mảng thiết kế front-end có giá trị cao như sở hữu trí tuệ và chip hệ thống tích hợp.

Đồng thời, có tiềm năng để xây dựng nhà máy chế tạo chip dựa trên các công nghệ đã hoàn thiện, hướng đến tạo ra các chip ứng dụng cho viễn thông 5G-6G, xe điện, robot, sản xuất công nghiệp và năng lượng tái tạo.

Về lợi thế nổi bật, đất nước có hệ thống chính trị ổn định và đã là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu. Theo Bản ghi nhớ về quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Mỹ xem Việt Nam là đối tác bán dẫn mới để hỗ trợ sản xuất, tiêu dùng và lao động. Cơ hội tiếp cận với công nghệ cao, thiết bị tiên tiến, và hợp tác đào tạo với Mỹ sẽ giúp Việt Nam tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị bán dẫn.

Ngoài ra, Việt Nam có nguồn lao động trẻ, chi phí nhân công cạnh tranh so với khu vực và thế giới. Cùng với một yêu cầu công việc như nhau, nhân công tại Việt Nam có chi phí chỉ bằng 1/2 so với Nhật Bản và 1/8 so với Mỹ.

Việt Nam có tiềm năng tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị bán dẫn. (Nguồn: MPI)

Việt Nam có tiềm năng tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị bán dẫn. (Nguồn: MPI)

Còn khó khăn, thách thức thì sao, thưa ông? Và Việt Nam cần làm gì để chủ động tháo gỡ những khó khăn đó?

Về khó khăn, thách thức, đối với mảng thiết kế: Lĩnh vực này đang thiếu nhân lực chuyên sâu và kinh nghiệm R&D, đặc biệt trong thiết kế vi mạch, mô phỏng, và quản lý quy trình công nghệ. Phần lớn các cơ sở đào tạo trước đây không có chuyên ngành thiết kế vi mạch.

Nguyên nhân chính bao gồm ngành học khó, cơ hội việc làm trước đây không nhiều, chi phí đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm, bản quyền sử dụng phần mềm thiết kế, sản xuất chip mẫu rất cao. Chính sách ưu đãi và cơ chế bảo vệ sở hữu trí tuệ cho hoạt động R&D vẫn chưa đủ hấp dẫn để thu hút trung tâm thiết kế toàn cầu.

Đối với mảng chế tạo, sản xuất: Chi phí đầu tư xây dựng và vận hành nhà máy chế tạo, sản xuất chip rất lớn (chi phí xây dựng một nhà máy là trên 2 tỷ USD cho dòng chip 14nm và trên 10 tỷ USD cho dòng chip tân tiến dưới 3nm).

Việt Nam còn thiếu hụt chuỗi cung ứng vật tư và logistic chuyên biệt cho sản xuất chip. Ngoài ra, các yếu tố địa chính trị, chính sách bảo vệ công nghệ lõi từ các nước chủ quản cũng là rào cản để các tập đoàn đa quốc gia xây dựng nhà máy sản xuất bán dẫn và chuyển giao công nghệ cao tại Việt Nam.

Để tháo gỡ những khó khăn, thách thức trên, Việt Nam cần xây dựng bộ giải pháp phối hợp toàn diện và đồng bộ giữa chính phủ, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo.

Với Chính phủ, cần mở rộng ưu đãi đầu tư, hỗ trợ vốn, đất đai, hạ tầng cơ sở để thu hút hoạt động R&D và sản xuất chip; xây dựng khung pháp lý minh bạch, làm cầu nối chuyển giao công nghệ qua các thỏa thuận hợp tác quốc tế.

Với doanh nghiệp, cần hợp tác và đổi mới. Doanh nghiệp cần thúc đẩy liên doanh trongngoài nước để chuyển giao công nghệ. Đồng thời, họ cần đầu tư vào R&D nội bộ, hợp tác với cơ sở nghiên cứu và đào tạo để phát triển thiết kế chip và đóng gói tiên tiến.

Với cơ sở đào tạo, cần đổi mới chương trình và hợp tác với doanh nghiệp. Các cơ sở đào tạo cần mở rộng và nâng cao chương trình đào tạo vi điện tử, thiết kế vi mạch và kỹ thuật, quy trình sản xuất bán dẫn. Song song với đó, các trường cần tạo điều kiện cho sinh viên thực tập và thực hiện đồ án kết hợp với doanh nghiệp để sinh viên tiếp xúc thực tế và nâng cao kỹ năng thực hành.

Chương trình “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050” đã được Chính phủ phê duyệt đặt mục tiêu đến năm 2030 đào tạo được ít nhất 50.000 nhân lực có trình độ từ đại học trở lên. Ông đánh giá thế nào về mục tiêu này?

Theo số liệu năm 2023, trung bình hằng năm Việt Nam đào tạo được 148.000 kỹ sư ngành kỹ thuật và STEM. Trong năm học 2024-2025, Việt Nam có khoảng 19.000 sinh viên ngành bán dẫn, chiếm khoảng 10% tổng số lượng ngành STEM. Nếu những con số này được duy trì trong những năm tới, mục tiêu đào tạo ít nhất 50.000 kỹ sư với 15.000 trong lĩnh vực thiết kế và 35.000 trong lĩnh vực sản xuất đến năm 2030 là khả thi.

Tuy nhiên, để bảo đảm về chất lượng đào tạo, Việt Nam cần ưu tiên mở rộng, đổi mới giáo dục về bán dẫn, trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, nâng cao chất lượng giảng viên, phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiêp. Khi đó, 50.000 kỹ sư không chỉ là con số, mà sẽ trở thành lực lượng sáng tạo giúp Việt Nam chuyển dịch từ “nơi lắp ráp” sang “trung tâm thiết kế và sáng tạo chip khu vực”.

Việt Nam đã là trung tâm bán dẫn toàn cầu với sự hiện diện của các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu trên thế giới. (Nguồn: Vneconomy)

Việt Nam đã là trung tâm bán dẫn toàn cầu với sự hiện diện của các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu trên thế giới. (Nguồn: Vneconomy)

Theo quan điểm của ông, trong đào tạo nhân lực ngành bán dẫn ở Việt Nam hiện nay có những khó khăn như thế nào? Làm thế nào để tháo gỡ những khó khăn đó?

Khó khăn lớn nhất là nhiều chương trình đào tạo chưa sát với thực tế yêu cầu, lực lượng giảng dạy còn hạn chế. Để tháo gỡ, cần mở rộng và phát triển các chương trình đào tạo chuyên sâu về thiết kế vi mạch, vật lý bán dẫn, sản xuất và đóng gói. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên thông qua chương trình đào tạo sau đại học, thực tập sinh tại trung tâm nghiên cứu hàng đầu trên thế giới cũng rất quan trọng.

Bên cạnh đó, cần nâng cao kỹ năng đào tạo lý thuyết và thực hành của giảng viên hiện tại thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu với sự hỗ trợ từ doanh nghiệp, đồng thời thực hiện chính sách thu hút giảng viên/chuyên gia từ nước ngoài thông qua chế độ đãi ngộ và việc làm hấp dẫn.

Nếu tận dụng tốt làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng để đầu tư vào nhân lực, hạ tầng, R&D, hợp tác và bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong tương lai, Việt Nam có thể trở thành trung tâm thiết kế bán dẫn và đóng gói tiên tiến của Đông Nam Á.

Năng lực thực hành và khả năng làm việc ngay của kỹ sư mới tốt nghiệp cũng còn hạn chế. Hiện nay, các doanh nghiệp thường mất thời gian 3-6 tháng để đào tạo sinh viên mới ra trường sử dụng thuần thục các công cụ thiết kế, đo đạc và kiểm thử, cũng như củng cố kiên thức về bán dẫn.

Nếu quá trình đào tạo có sự tham gia của doanh nghiệp ngay từ đầu, thời gian đưa vào sử dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ được rút ngắn.

Chính phủ cần hỗ trợ cơ sở đào tạo xây dựng các phòng thí nghiệm thiết kế bán dẫn được trang bị các phần mềm thiết kế chuyên dụng, thiết bị thực hành, đo đạc và kiểm thử. Ngoài ra, chính phủ cần đóng vai trò là cầu nối các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy, doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài để cung cấp quyền truy cập vào công cụ thiết kế chuyên dụng, sở hữu trí tuệ, bộ thiết kế quá trình, cũng như là đầu mối của các dự án chế tạo chip mẫu phục vụ R&D.

Trong tương lai, ông kỳ vọng thế nào về sự phát triển của ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam?

Với lợi thế về chính trị ổn định, chi phí sản xuất cạnh tranh và lực lượng lao động trẻ, tôi tin rằng, nếu tận dụng tốt làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng để đầu tư vào nhân lực, hạ tầng, R&D, hợp tác và bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong tương lai, Việt Nam có thể trở thành trung tâm thiết kế bán dẫn và đóng gói tiên tiến của Đông Nam Á.

Xin cảm ơn ông!

Châu Linh

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/nganh-cong-nghiep-ban-dan-viet-nam-tu-noi-lap-rap-den-trung-tam-thiet-ke-va-sang-tao-chip-trong-khu-vuc-332858.html