Người phụ nữ đề thơ trước mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái

Sâu trong Hoàng Hoa Cương là nơi yên nghỉ của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Mộ của ông được những khóm trúc, những tàng lá cọ lớn xòe ra che chở. Ông đã nằm dưới chân núi Hoàng Hoa Cương này trên đất khách nhưng ấm tình người. Ông không cô đơn. Đồng bào ở Quảng Châu đã dành cho ông một tình cảm vô cùng đặc biệt.

Bên trái mộ của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái là tấm bia tưởng niệm, ghi rõ ngày lập mộ đầu tiên ở Thái Hòa Cương vào tháng 1 năm thứ 14 của Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1958, UBND thành phố Quảng Châu đưa hài cốt ông từ Thái Hòa Cương vào sâu trong Hoàng Hoa Cương. Khi tôi đến, vòng hoa tưởng niệm của Đoàn đại biểu Tòa án Nhân dân tối cao Việt Nam đặt trên mộ ông vẫn còn tươi. Dường như trở thành thông lệ, thông lệ trở thành truyền thống, hầu như người Việt Nam nào sang Quảng Châu công tác, làm ăn đều có ý nguyện đến Hoàng Hoa Cương thăm mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái...

Từ năm 1927, bà Nguyễn Trung Nguyệt, một hội viên của Tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội sang Quảng Châu dự khóa huấn luyện chính trị đặc biệt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Trong một chuyến đi "thực tế", bà đã cùng các đồng chí đến thăm Hoàng Hoa Cương. Bà đã ghi lại trong hồi ký những xúc cảm dạt dào, thiêng liêng khi đứng trước mộ người Liệt sĩ:

"...Sẩm tối, chúng tôi đã đến trước mộ của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Hồ Tùng Mậu đốt nhang thơm, khói bay tỏa trong chiều tà, có cái gì rung động tận tâm can. Khi đứng trước mộ bia Liệt sĩ, dường như anh - hồn còn lẩn khuất đâu đây.

Chúng tôi tự động đứng hàng dài trước mộ, nghiêm trang mặc niệm, ngậm ngùi nói lên tiếng nói tự đáy lòng: "Đồng chí Phạm Hồng Thái, anh không muốn đất nước chúng ta bị xâm lăng. Chúng tôi nguyện nối chí anh làm Cách mạng giải thoát ách nô lệ".

...Lê Hồng Phong dạy lại nói với anh em: "Chúng ta không tin dị đoan lên đây mà thề nguyện trước mộ. Nhưng lời hứa với người chết là lời hứa không "lấy lại" bao giờ. Cái bữa hôm nay đánh dấu tất cả chúng ta là "một người" quan hệ mật thiết như chân tay gan mật và vui buồn sướng khổ chung số mệnh rủi may, chúng ta chính thức đi một con đường đó nhé...".

Chúng tôi tới thăm mộ 72 Liệt sĩ trong Hoàng Hoa Cương, sau mộ của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Tối rồi, đứng trong hàng nghĩa địa, một nỗi buồn không tên man mác, bâng khuâng! Có ý muốn làm một cái gì đó như Cách mạng, như lật đổ, bẻ gông cùm kiềm kẹp con người...

Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt (áo dài) bị Pháp đưa ra tòa năm 1929 và kết án 10 năm tù

Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt (áo dài) bị Pháp đưa ra tòa năm 1929 và kết án 10 năm tù

Chúng tôi bái biệt những Anh hùng Liệt sĩ với niềm chua xót mông lung...".

Bên những người đồng chí: Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lý Tự Trọng, Thuận, Lê...; Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt đọc bài thơ "Viếng mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái":

Ác tà cùng bước đến ven non

Hồng Thái mộ đây, dấu tích còn

Xây đắp "hình chuông" thêm hữu ý

Đá long, khí tiết dễ đâu mòn?

Tưởng niệm hùng anh xúc động mòn

Gió lay cành trúc lệ sương tuôn

Nghìn thu mộ đá che hào kiệt

Ái quốc hồn linh sống mạnh luôn

Tha thiết tự do, chẳng thiết đời

Lông hồng giao nhẹ... thác như chơi!

Ra tay sấm sét kinh hồn giặc

Thành, bại ngàn xưa cũng thế thôi!

Xót ai xương trắng gởi quê người!

Cách mạng treo gương sáng vạn đời

Sa Diện tiếng bom rền dũng khí

Sá gì sông lạnh hạt châu rơi!

Cái chết anh dũng của Phạm Hồng Thái đã gắn liền tên tuổi ông với địa danh Sa Diện, Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu. Cái chết của ông cũng đã làm cho dòng Châu Giang - con sông không lớn lắm chảy qua thành phố Quảng Châu trở nên thân thiết với người Việt Nam. Người thanh niên làm nên "Tiếng bom Sa Diện" ấy quê ở Nghệ An, còn có tên Phan Thành Tích, sớm theo chân các bậc tiền bối và những người đồng thời cùng chí hướng xuất ngoại, tìm con đường cứu nước. Đầu tiên Phạm Hồng Thái qua Xiêm. Ba tháng sau, ông đến Quảng Châu...

Mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái

Mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái

Sau cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai, Trung Quốc trở thành một miếng mồi ngon cho bọn thực dân xâu xé. Năm 1899, nhân có võ quan và giáo sĩ Pháp bị giết ở một huyện thuộc tỉnh Quảng Đông, Pháp đem binh thuyền chiếm Quảng Châu. Nhà Thanh bị buộc cho họ thuê 99 năm. Cũng từ đó Quảng Châu đặt dưới quyền kiểm soát của người Pháp. Sa Diện là một tô giới dành riêng cho người da trắng với biển đề: "Nơi đây cấm người Trung Quốc và chó”. Người dân Trung Quốc ở Quảng Châu lúc ấy cũng như người Việt Nam, cùng có chung kẻ thù cướp nước. Hành trình của Merlin - tên toàn quyền đại diện cho thực dân Pháp ở Việt Nam đi công cán sang Nhật rồi ghé lại Quảng Châu dù được giữ bí mật, có tàu quân sự hộ tống, vẫn bị các nhà Cách mạng ở Thượng Hải, Quảng Châu phát hiện. Cụ Phan Sào Nam, vị cố vấn tối cao của Ban chỉ huy Cách mạng Hải ngoại tại Việt Nam lúc đó cùng các cụ, trong đó có cụ Nguyễn Thượng Hiền và những thanh niên nhiệt huyết khác như Lê Văn Phan, Vũ Tam Anh, "Hồng Sơn Lâm Đức Thụ”, Hồ Tùng Mậu cùng nhiều nhân vật khác dự thảo kế hoạch nhằm triệt hạ uy tín tên thực dân. Người nhận sứ mệnh đặc biệt ấy là Phạm Hồng Thái. Khi biết Merlin tới Nhật, Phạm Hồng Thái dò theo nhưng không thể nào tiếp cận được. Mãi khi Merlin tới Quảng Châu, sắp dự tiệc tại nhà hàng Victoria ở Sa Diện, Phạm Hồng Thái mới ra tay...

Buổi sáng ngày 19/6/1924, Phạm Hồng Thái đã xuất hiện bên chiếc cầu duy nhất dẫn vào tô giới Sa Diện. Nơi đây cấm người Trung Quốc và chó nhưng chúng vẫn cần người địa phương làm nhiệm vụ đổ rác, dọn dẹp vệ sinh. Phạm Hồng Thái đi theo người làm vệ sinh, mang theo bên mình chiếc máy ảnh, trong chiếc máy ảnh đựng một quả tạc đạn. Theo lời kể của những người cùng thời ghi lại đến ngày hôm nay, sau khi vào được tô giới Sa Diện rồi, Phạm Hồng Thái cải trang thành một vị khách đi dự tiệc, ăn mặc rất sang trọng. Khi buổi tiệc bắt đầu, khoảng 19 giờ, Phạm Hồng Thái tung "tạc đạn" vào bàn ăn rồi bỏ chạy. Merlin thoát chết, một số quan chức Pháp chết và bị thương. Phạm Hồng Thái chạy trở ra cầu nhưng bị bọn Pháp vây chặt. Không muốn sa vào tay giặc, ông gieo mình xuống dòng Châu Giang. Mấy ngày sau, đồng bào Quảng Châu nhặt được xác Phạm Hồng Thái và chôn người Liệt sĩ ấy dưới chân núi Thái Hòa Cương...

Phạm Hồng Thái hy sinh nhưng dư âm tiếng bom từ Sa Diện đã truyền về Tổ quốc, đánh thức lòng yêu nước của hàng triệu thanh niên Việt Nam. Lòng yêu nước của người thanh niên Việt Nam trên đất Quảng Châu tạo nên sự cảm mến, khâm phục đối với người dân Trung Quốc. Nhờ sự khâm phục lòng can đảm của người Việt Nam yêu nước Phạm Hồng Thái, Trường dân sự Hoàng Phố do Tôn Trung Sơn sáng lập, Tưởng Giới Thạch làm Hiệu trưởng đã thu nhận những học viên người Việt Nam...

Sau sự kiện "Tiếng bom Sa Diện", Lãnh sự Pháp ở Bắc Kinh yêu cầu nhà cầm quyền Quảng Châu trục xuất hết người Việt và bồi thường thiệt hại. Nhưng Tổng đốc Hồ Hán Dân trả lời: "Việc ám sát này xảy ra tại tô giới Pháp, Trung Hoa không chịu trách nhiệm". Nhà cầm quyền Quảng Châu còn trao cho các chí sĩ Việt Nam số tiền 3.000 đồng để xây mộ Phạm Hồng Thái ở Thái Hòa Cương - trước khi đưa về Hoàng Hoa Cương, nơi yên nghỉ của 72 Liệt sĩ Trung Hoa...

Viếng mộ người Liệt sĩ ở Hoàng Hoa Cương, những người Cách mạng được Nguyễn Ái Quốc đưa sang Quảng Châu năm ấy vô cùng xúc động, tâm trạng cũng dạt dào thật khó tả. Họ cùng nhau chụp bức ảnh ghi lại khoảnh khắc thiêng liêng ấy.

Năm 1928, Bảo Lương về nước trên một chuyến tàu bí mật. Nhiệm vụ của tổ chức giao phó trĩu nặng trên đôi vai cô. Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt, người phụ nữ Việt Nam đầu tiên rời mảnh đất quê hương, cải nam trang sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện chính trị vào năm 1927 của Tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, người cán bộ phụ nữ đầu tiên đi vận động tổ chức Hội phụ nữ Giải phóng tại Nam bộ năm 1928. Sau đó, Bảo Lương bị bắt trong một vụ án ở đường Barbier (Lý Trần Quán), bị kêu án 10 năm tù. Bức ảnh chụp cùng những người đồng chí mình trước mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái rơi vào tay mật thám Pháp. Những người Cách mạng kiên định với lời thề của mình trước quân xâm lược, đã sống và chết xứng đáng, giữ trọn lời thề với tiền nhân. Địa ngục trần gian với những đọa đày nghiệt ngã, vượt lên những ngón đòn tra tấn dã man, người con gái với tâm hồn đa cảm chợt trở nên đầy khí phách, dũng cảm. Có một thời, bài thơ của Bảo Lương đã vượt qua khỏi song sắt nhà tù Khám lớn Sài Gòn, được nhiều người truyền tụng:

Quốc thù chưa trả, ta chưa chết

Gươm ấy là con, súng ấy chồng.

Bảo Lương ra tù năm 1937, lách mình ra khỏi sân khấu chính trị để làm một người vợ, người mẹ bình thường sau khi đã làm tròn vai trò tiên phong đáng khâm phục của người phụ nữ một thời dám bước ra khỏi bốn bức tường lễ giáo phong kiến, dấn thân cho lý tưởng Cách mạng.

THANH TÂN

Nguồn CA TP.HCM: http://congan.com.vn/tin-chinh/nguoi-phu-nu-de-tho-truoc-mo-liet-si-pham-hong-thai_182017.html