Nguy cơ rủi ro thiên tai, bão lũ, ngập lụt, lượng mưa tăng do La Ninã

Việt Nam thường xuyên chịu ảnh hưởng mạnh từ hiện tượng La Ninã, khi tần suất bão và lũ lụt gia tăng, đặc biệt tại miền Trung. Ở đồng bằng sông Hồng, La Ninã kết hợp với bão cuối mùa gây rủi ro ngập lụt đô thị. Đồng bằng sông Cửu Long đứng trước nguy cơ đặc biệt cao khi La Ninã làm gia tăng lượng mưa trên toàn lưu vực Mekong. Lũ từ thượng nguồn đổ về kết hợp triều cường và nước biển dâng khiến tình trạng ngập lụt kéo dài…

Mưa lớn gây ngập lụt nhiều tuyến đường ở Thành phố Hà Nội những ngày qua.

Mưa lớn gây ngập lụt nhiều tuyến đường ở Thành phố Hà Nội những ngày qua.

Xác suất dự báo La Ninã 2025-2026 cho thấy mức độ chắc chắn cao trong giai đoạn tháng 10-12/2025, duy trì ở mức 70-71%, sau đó giảm xuống 54-70% trong mùa đông và dưới 55% vào đầu năm 2026. Khả năng quay lại trạng thái trung tính tăng lên 55-74%, phản ánh một chu kỳ ngắn nhưng có thể tạo ra tác động mạnh.

Điều này đặt ra thách thức cho công tác quản lý thiên tai ở Việt Nam, đòi hỏi tăng cường dự báo khí tượng thủy văn, phối hợp vận hành hồ chứa và chuẩn bị nguồn lực khẩn cấp để giảm thiểu rủi ro, thiệt hại do La Ninã.

DỰ BÁO KHẢ NĂNG XUẤT HIỆN LA NINÃ CUỐI NĂM 2025 ĐẦU NĂM 2026

Hiện tượng El Ninõ-dao động Nam (ENSO) là dao động khí hậu liên quan đến sự thay đổi thất thường nhưng có tính chu kỳ của gió và nhiệt độ bề mặt biển vùng nhiệt đới Thái Bình Dương, xoay chuyển giữa hai trạng thái cực đoan, gồm pha nóng El Ninõ và pha lạnh La Ninã, thường kéo dài từ 9-18 tháng và lặp lại trong khoảng từ 2-7 năm.

El Ninõ thường gắn với sự suy yếu của gió tín phong và sự gia tăng nhiệt độ mặt nước biển ở Đông Thái Bình Dương, dẫn đến lượng mưa dồn về phía đông. La Ninã xuất hiện khi gió tín phong mạnh lên, nước lạnh dâng lên nhiều hơn dọc xích đạo và bờ tây châu Mỹ, làm nhiệt độ bề mặt biển ở trung tâm và phía đông Thái Bình Dương giảm thấp. Hệ quả là vùng biển phía tây Thái Bình Dương tích tụ nước ấm, hình thành khu vực đối lưu mạnh và mưa gia tăng.

Đến tháng 9/2025, nhiều cơ quan khí tượng quốc tế và quốc gia đã đưa ra đồng thuận mạnh mẽ về khả năng xuất hiện của La Ninã. Tổ chức DOST-PAGASA của Philippines đã nâng mức cảnh báo lên “La Ninã Alert”, trong khi NOAA và WMO duy trì ở mức “La Ninã Watch”. Những tín hiệu cho thấy điều kiện rất thuận lợi cho La Ninã phát triển, với xác suất xuất hiện trên 70% trong vòng 2 tháng tới. Xác suất cao nhất tập trung vào mùa thu ở bán cầu Bắc, đặc biệt trong giai đoạn từ tháng 10-12/2025.

Khả năng thiên tai, hiện tượng mưa lũ, bão hay hạn hán do La Ninã gây ra sẽ trở nên gay gắt hơn.

Khả năng thiên tai, hiện tượng mưa lũ, bão hay hạn hán do La Ninã gây ra sẽ trở nên gay gắt hơn.

Các dự báo của NOAA CPC, DOST-PAGASA và WMO đều đưa ra xác suất khoảng 70-71%, đồng nghĩa với việc giới hoạch định chính sách cần chuẩn bị kịch bản khí hậu do La Ninã chi phối trong quý cuối cùng của năm. Nhiều mô hình còn cho thấy La Ninã nhiều khả năng kéo dài sang mùa đông ở bán cầu Bắc, tức từ tháng 12/2025 đến tháng 2/2026, dù tỷ lệ giảm xuống còn khoảng 54-56%. Đến nửa đầu năm 2026, từ tháng 1 đến tháng 3, trạng thái khí hậu trung tính có khả năng quay trở lại, với xác suất tăng lên từ 55-74%.

Các dự báo phân tích cường độ và thời gian tồn tại cho thấy La Ninã năm 2025-2026 sẽ yếu và ngắn hơn so với những giai đoạn nhiều năm trước đó, chẳng hạn đợt ba năm liên tiếp từ 2020 đến 2023. Các mô hình của IRI và NMME đều thống nhất rằng giai đoạn phát triển mạnh tập trung chủ yếu trong ba tháng cuối năm 2025, sau đó suy giảm nhanh trong đầu năm 2026.

Đặc điểm mang ý nghĩa lớn đối với quản lý thiên tai, vì phần lớn tác động thủy văn và khí tượng cực đoan như mưa lớn hay bão nhiệt đới sẽ dồn nén trong khung thời gian ngắn, đòi hỏi các quốc gia trong khu vực Tây Thái Bình Dương phải gấp rút tăng cường năng lực sẵn sàng, phân bổ nguồn lực và dự trữ vật tư ứng phó.

Dù La Ninã được phân loại yếu, mức độ ảnh hưởng tại từng địa phương có thể nghiêm trọng hơn nhiều so với dự đoán. WMO nhấn mạnh rằng hiện tượng ENSO đang diễn ra trong bối cảnh biến đổi khí hậu, làm nhiệt độ toàn cầu tăng và làm trầm trọng thêm các hình thái thời tiết cực đoan. Sự kết hợp khiến các sự kiện tự nhiên không còn diễn biến theo quy luật tuyến tính thông thường. Những bất thường khác như sóng nhiệt đại dương ở Bắc Thái Bình Dương càng làm gia tăng tác động, dẫn tới khả năng các hiện tượng mưa lũ, bão hay hạn hán do La Ninã gây ra sẽ trở nên gay gắt hơn.

NHỮNG NGUY CƠ RỦI RO THIÊN TAI, BÃO LŨ DO LA NINÃ Ở VIỆT NAM

Việt Nam thường xuyên chịu ảnh hưởng mạnh từ hiện tượng La Ninã, khi tần suất bão và lũ lụt gia tăng, đặc biệt tại miền Trung. Thống kê trong nhiều giai đoạn cho thấy số tháng có mưa lớn trong các năm La Ninã nhiều gấp 4,6 lần so với các năm El Ninõ. Hiện tượng kéo dài từ cuối mùa hè đến mùa đông, trùng khớp với mùa mưa chính ở khu vực Trung Bộ.

Sự kết hợp của gió mùa Đông Bắc tăng cường và hoàn lưu bão cuối mùa khiến lượng mưa tại vùng duyên hải từ Thanh Hóa đến Khánh Hòa có thể tăng từ 9-19% so với trung bình nhiều năm. Địa hình dốc, sông ngắn, dòng chảy tập trung nhanh làm nguy cơ lũ quét, sạt lở đất trở thành mối đe dọa nghiêm trọng. Đồng bằng ven biển miền Trung thường xuyên bị ngập sâu, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và hạ tầng giao thông.

Tình trạng thiên tai, lũ quét gây thiệt hại nặng nề.

Tình trạng thiên tai, lũ quét gây thiệt hại nặng nề.

Ở đồng bằng sông Hồng, hiện tượng La Ninã kết hợp với bão cuối mùa gây rủi ro ngập lụt đô thị, khi hệ thống thoát nước vốn đã quá tải không kịp tiêu thoát. Hà Nội và các thành phố lớn tại miền Bắc có nguy cơ ngập sâu trên diện rộng, kéo theo tình trạng tắc nghẽn giao thông và thiệt hại kinh tế.

Các cơn bão hình thành trên Biển Đông thường di chuyển theo hướng Tây và Tây Bắc, tác động trực tiếp đến các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Nghệ An. Sự cộng hưởng giữa mưa lớn, lũ từ thượng nguồn và triều cường có thể tạo nên kịch bản ngập kép, khiến công tác ứng phó cần sự phối hợp chặt chẽ giữa dự báo khí tượng và vận hành hồ chứa.

Đồng bằng sông Cửu Long đứng trước nguy cơ đặc biệt cao khi La Ninã làm gia tăng lượng mưa trên toàn lưu vực Mekong. Lũ từ thượng nguồn đổ về kết hợp triều cường và nước biển dâng khiến tình trạng ngập lụt kéo dài. Những vùng trũng thấp ở An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ có thể bị ngập sâu, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư.

Hiện tượng lũ kép làm suy yếu hệ thống đê bao, cống ngăn mặn, đòi hỏi phải có chiến lược quản lý nước tổng hợp, vừa phục vụ sản xuất vừa bảo đảm an toàn. Khả năng tiêu thoát lũ chậm khiến thời gian ngập kéo dài, dẫn đến thiệt hại lan rộng trong nhiều lĩnh vực từ sản xuất lúa gạo đến thủy sản.

CHỦ ĐỘNG PHÒNG CHỐNG RỦI RO DO HIỆN TƯỢNG LA NINÃ

Để chủ động ứng phó, Việt Nam đã xây dựng chiến lược quản lý rủi ro thiên tai theo hướng phòng ngừa. Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia nâng cao năng lực cảnh báo sớm, cung cấp dự báo định lượng mưa lớn theo từng lưu vực, giúp chính quyền địa phương chủ động lên phương án sơ tán và vận hành hồ chứa.

Các tỉnh miền Trung đã xây dựng phương án di dời dân tại khu vực có nguy cơ lũ quét, sạt lở, với thời gian triển khai từ 48-72 giờ trước khi bão đổ bộ. Ở miền Bắc, các hồ chứa lớn như Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, Thác Bà được vận hành liên hồ, tạo dung tích đón lũ và giảm thiểu rủi ro hạ du. Ở miền Nam, công tác phối hợp giữa quản lý lưu vực Mekong và các hệ thống kênh nội đồng được đặt lên hàng đầu nhằm hạn chế ngập úng.

Quản lý rủi ro thiên tai cần gắn với quy hoạch phát triển bền vững.

Quản lý rủi ro thiên tai cần gắn với quy hoạch phát triển bền vững.

Về mặt kinh tế, Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng của quỹ dự phòng và bảo hiểm rủi ro thiên tai. Tổ chức các gói tín dụng ưu đãi cho nông dân, khuyến khích thu hoạch sớm, đa dạng hóa cây trồng và di chuyển vật nuôi ra khỏi vùng ngập. Đầu tư vào hạ tầng chống lũ như kè sông, cống điều tiết, đê biển kết hợp với hệ thống thoát nước đô thị. Chiến lược giúp giảm tổn thất kinh tế trực tiếp và gián tiếp, đồng thời bảo đảm ổn định sinh kế cho người dân vùng rủi ro cao.

Khía cạnh xã hội cũng cần được quan tâm khi nhiều cộng đồng ven biển và miền núi còn hạn chế khả năng thích ứng. Chính quyền địa phương cùng các tổ chức xã hội đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn kỹ năng ứng phó khẩn cấp, nâng cao nhận thức cộng đồng về thiên tai. Các chương trình bảo trợ xã hội, cứu trợ khẩn cấp và hỗ trợ sinh kế sau thiên tai được triển khai nhằm giảm thiểu tác động dài hạn. Trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi thường chịu ảnh hưởng nặng nề, do đó cần có kế hoạch riêng cho các nhóm dễ tổn thương.

Đầu tư vào công nghệ dự báo hiện đại đóng vai trò quan trọng trong tăng cường khả năng chống chịu. Hệ thống mô hình dự báo mưa, bão, lũ tích hợp dữ liệu khí tượng, thủy văn và viễn thám giúp nâng cao độ chính xác. Các bản đồ ngập lụt được số hóa, cập nhật theo thời gian thực, cung cấp thông tin chi tiết đến từng xã, thôn. Công nghệ cảnh báo qua điện thoại di động và mạng xã hội giúp người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng. Việc kết hợp trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong phân tích xu hướng khí hậu cho phép dự đoán chính xác hơn về những đợt mưa cực đoan do La Ninã.

Quản lý rủi ro thiên tai cần gắn với quy hoạch phát triển bền vững. Các đô thị lớn phải tích hợp giải pháp thoát nước thông minh, bảo tồn không gian xanh, hồ điều hòa để giảm ngập lụt. Các vùng nông thôn miền núi cần có quy hoạch tái định cư an toàn, giảm thiểu xây dựng tại khu vực có nguy cơ sạt lở cao.

Hệ thống hạ tầng giao thông phải được thiết kế chống chịu tốt hơn trước mưa lũ. Nông nghiệp cần hướng tới sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu, áp dụng mô hình canh tác thông minh với khí hậu, nâng cao năng lực quản lý rủi ro ở cấp hộ gia đình và hợp tác xã.

La Ninã 2025-2026 được dự báo ngắn hạn nhưng rủi ro tiềm ẩn vẫn rất cao. Trọng tâm ứng phó của Việt Nam là chuyển từ bị động sang chủ động, từ khắc phục hậu quả sang phòng ngừa sớm. Mỗi giai đoạn từ dự báo, cảnh báo đến triển khai cần được phối hợp nhịp nhàng giữa trung ương và địa phương. Công tác chuẩn bị nguồn lực, hậu cần, thiết bị cứu hộ cần hoàn tất trước cao điểm mùa mưa bão.

Việc gắn kết giữa chiến lược giảm nhẹ thiên tai với phát triển kinh tế xã hội sẽ giúp Việt Nam tăng khả năng chống chịu, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản và phát triển bền vững trong điều kiện khí hậu ngày càng bất ổn.

(*) ThS Lưu Lê Hường, Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường.

TS. Yongduk Pak, Viện Kinh tế Năng lượng Hàn Quốc

ThS. Lưu Lê Hường- TS. Yongduk Pak (*)

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/nguy-co-rui-ro-thien-tai-bao-lu-ngap-lut-luong-mua-tang-do-la-nina.htm