Nhà thơ Phạm Tiến Duật, cánh chim lạ của Trường Sơn huyền thoại

Nhà thơ Phạm Tiến Duật, gắn bó máu thịt với Trường Sơn, để lại những vần thơ vừa hào hùng vừa lãng mạn của một thế hệ trong kháng chiến.

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là dịp để nhớ lại những trang sử vàng, những thế hệ anh hùng đã ngã xuống và cả những văn nghệ sĩ đã cầm bút song hành cùng cuộc chiến. Trong số ấy, nhà thơ Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu. Thơ ông vừa mang âm hưởng bản hùng ca, vừa ngân vang như khúc tình ca của một thời đại.

 Nhà thơ Phạm Tiến Duật thời trẻ, Ảnh tư liệu.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật thời trẻ, Ảnh tư liệu.

Người lính, nhà thơ của Trường Sơn

Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh ngày 14/1/1941 tại Phú Thọ, trong một gia đình trí thức nông thôn: cha là nhà giáo, mẹ làm ruộng. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, ông nhập ngũ, trải qua 14 năm quân ngũ, trong đó có 8 năm gắn bó với Trường Sơn, tuyến lửa huyền thoại của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Ông từng chia sẻ: “Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật”. Chính sự gắn bó ấy đã khiến thơ ông neo lại trong lòng bạn đọc suốt nhiều thế hệ.

Không chỉ là người lính chiến đấu, nhà thơ Phạm Tiến Duật còn là phóng viên mặt trận. Ông vừa ở trong cuộc, sống, chiến đấu, chia sẻ gian khổ với đồng đội; vừa ở ngoài cuộc, quan sát, chiêm nghiệm, để viết nên những vần thơ mang khí phách ngang tàng, chất bụi bặm và tinh nghịch của người lính Trường Sơn. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ từng nhận định: “Thơ ông mang hơi thở của cả một thời đại nhưng bằng khí phách ngang tàng, chất bụi bặm và kiêu bạc của người lính thời chống Mỹ”.

Tượng đài Trường Sơn trong thi ca

Nếu coi Trường Sơn là một bản trường ca vĩ đại của dân tộc, thì thơ Phạm Tiến Duật chính là những chương hay nhất, sống động nhất. Ông đã không đi tìm những hình tượng lớn lao, vĩ đại ở đâu xa. Thơ ông là một Trường Sơn thu nhỏ với những con người bình dị mà phi thường.

Đó là những anh lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, một hình tượng kinh điển của văn học kháng chiến. Những chiếc xe trần trụi, biến dạng vì bom đạn lại trở thành biểu tượng cho tinh thần bất khuất: “Không có kính không phải vì xe không có kính / Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi / Ung dung buồng lái ta ngồi / Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Thái độ “ung dung”, cái nhìn “nhìn thẳng” ấy chính là khí phách của cả một thế hệ. Giữa bom rơi đạn nổ, họ vẫn thấy “sao trời và đột ngột cánh chim”, vẫn “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Cái gian khổ, ác liệt của chiến tranh hiện lên chân thực, nhưng được khúc xạ qua lăng kính lạc quan, tếu táo và đậm chất lính.

Đó là những cô thanh niên xung phong, những đóa hoa kiên cường giữa rừng xanh núi đỏ. Họ là những người “ngày em phá nhiều bom nổ chậm / đêm nằm mơ nói mớ vang nhà”, nhưng cũng là những cô gái trẻ trung, yêu đời với những hình ảnh đầy nữ tính: “Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy nắng sớm / Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều”. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã nhìn thấy vẻ đẹp mềm mại, lãng mạn ẩn sau sự gan góc, dũng cảm của họ.

Và đó còn là những người lính công binh lầm lì mở đường, những đồng chí coi kho cô độc trong hang đá... Dưới ngòi bút của ông, không ai là vô danh. Người coi kho sau “mười năm sống xa phố, xa làng” vẫn cất lên tiếng cười vang vọng: “Đồng chí coi kho cười ha hả / Chẳng có tiếng cười nào / vang hơn tiếng cười trong hang đá”. Tiếng cười ấy là tiếng cười của niềm tin, của sự lạc quan, át đi cả tiếng bom gầm, mưa rừng.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã nói thay cho cả một thế hệ. Ông đã làm cho người lính trên đường ra trận bớt cô đơn, làm cho người chiến sĩ nơi hậu phương thêm vững lòng. Thơ ông trở thành hành trang tinh thần không thể thiếu trong ba lô của mỗi người lính.

“Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”: Bản tình ca bất tử

Trong di sản thơ ca đồ sộ của nhà thơ Phạm Tiến Duật, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” có một vị trí đặc biệt. Ra đời cuối năm 1969, bài thơ nhanh chóng trở thành một hiện tượng. Và khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc, sức sống của nó đã được nhân lên gấp bội. Chất thơ trữ tình hòa quyện với giai điệu hùng ca đã tạo nên một tuyệt phẩm sống mãi với thời gian.

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn / Hai đứa ở hai đầu xa thẳm / Đường ra trận mùa này đẹp lắm / Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”.

Bài hát không chỉ nói về tình yêu đôi lứa, mà còn là tình yêu đất nước, tình đồng đội lớn lao. Tình riêng và nghĩa chung hòa quyện trong từng câu chữ. Nó đã nói lên được cảm xúc lớn của thời đại, của cả một thế hệ sẵn sàng gác lại hạnh phúc riêng tư để lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc. Từ khắp các mặt trận, bài hát vang lên như một lời hiệu triệu, thôi thúc hàng triệu trái tim xông pha nơi tiền tuyến. Cho đến tận bây giờ, “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây” vẫn là một trong những bài ca hay nhất về người lính, là niềm tự hào của những người đã đi qua năm tháng không thể nào quên.

Đêm 4/12/2007, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nhà thơ Phạm Tiến Duật trút hơi thở cuối cùng sau nhiều tháng chống chọi ung thư phổi. Tin ông qua đời lan đi, từ những cựu binh Trường Sơn đến độc giả trẻ đều bàng hoàng. Sáng hôm sau, trong tang lễ ở Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, nhiều người lính năm xưa bật khóc và đồng thanh hát “Trường Sơn Đông,Trường Sơn Tây” để tiễn biệt người thi sĩ đã thay họ nói lên nỗi niềm giữa khói bom, máu lửa.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật từng làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam; là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam. Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ: "Vầng trăng quầng lửa" (1970), "Thơ một chặng đường" (1971), "Ở hai đầu núi" (1981), "Vầng trăng và những quầng lửa" (1983), "Nhóm lửa" (1996), "Tiếng bom và tiếng chuông chùa" (1997)…

Với những đóng góp của mình, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học - nghệ thuật năm 2001, Huân chương Lao động hạng nhì năm 2007 và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật năm 2012.

Mai Nguyễn

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/nha-tho-pham-tien-duat-canh-chim-la-cua-truong-son-huyen-thoai-post1564290.html