Nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, Ph.Ăng-ghen là một nhà tư tưởng vĩ đại, người đã cùng Các Mác đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội khoa học và mở ra một thời đại mới trong nhận thức về giải phóng con người. Không chỉ là nhà lý luận xuất sắc, Ph.Ăng-ghen còn là nhà hoạt động cách mạng mẫu mực, người thầy và lãnh tụ kiệt xuất của phong trào công nhân châu Âu trong nửa cuối thế kỷ XIX.
LÃNH TỤ KIỆT XUẤT
Ph.Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 trong một gia đình chủ xưởng dệt ở thành phố Barơmen, Vương quốc Phổ (nay là nước Đức). Từ rất sớm, ông sinh sống, thâm nhập thực tiễn vào phong trào cách mạng ở nhiều nước khác nhau; để từ đó, trực tiếp tìm hiểu đời sống của Nhân dân lao động và quan sát những mâu thuẫn gay gắt đang diễn ra trong xã hội tư bản lúc bấy giờ. Những trải nghiệm thực tiễn sâu sắc ấy, cùng sự tác động từ bối cảnh thời đại đã hình thành tư tưởng cách mạng của ông.

Ph.Ăng-ghen là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại.
Tuy xuất thân từ gia đình tư sản, Ph.Ăng-ghen đã lựa chọn con đường đứng về phía giai cấp vô sản, dành toàn bộ trí tuệ, nhiệt huyết và cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân (GCCN). Ông kiên định mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột.
Gắn bó trong hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn cách mạng, Các Mác và Ph.Ăng-ghen đã cùng nhau đặt nền móng cho chủ nghĩa cộng sản khoa học, xây dựng, giáo dục đội ngũ tiên phong của GCCN; đồng thời, xác định rõ sứ mệnh lịch sử của GCCN trong cuộc đấu tranh giải phóng con người.
Với tinh thần cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác, Ph.Ăng-ghen nêu lên một luận điểm nổi tiếng: “Chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ khi trở thành khoa học, đòi hỏi phải được đối xử như là một khoa học”. Đứng trên lập trường ấy, Ph.Ăng-ghen đã cùng Các Mác đấu tranh không mệt mỏi với khuynh hướng phản khoa học và không tưởng trong phong trào công nhân, những âm mưu chia rẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chính sự kiên định về lý luận và bản lĩnh chính trị ấy đã góp phần giữ vững sự thống nhất, trong sáng và khoa học của CNXH trong giai đoạn đầy biến động vào nửa cuối thế kỷ XIX.
Trong số những công trình quan trọng của hai ông, có thể kể đến tác phẩm: Gia đình Thần thánh, Hệ tư tưởng Đức…, đặc biệt là bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (2-1848), được xem là bản cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Tác phẩm mang tính bước ngoặt, thể hiện rõ thế giới quan của GCCN, phép biện chứng duy vật lịch sử và những nguyên lý nền tảng của phong trào cộng sản quốc tế.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu viết chung với Các Mác, Ph.Ăng-ghen còn để lại nhiều tác phẩm riêng có giá trị lý luận sâu sắc như: Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh, Chống Đuyrinh, Biện chứng của tự nhiên…
Những tác phẩm này không chỉ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, mà còn trở thành những “kim chỉ nam” giúp phong trào công nhân và cách mạng thế giới xác định phương hướng đấu tranh đúng đắn.
Đặc biệt, quan điểm của Ph.Ăng-ghen về con đường đi lên CNXH đã thể hiện rõ tư duy biện chứng, tầm nhìn chiến lược của ông về khả năng phát triển “rút ngắn” của các nước tiền tư bản khi tiến lên xây dựng CNXH.
Ph.Ăng-ghen chỉ ra rằng: “Các nước không những có thể mà còn chắc chắn… rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển lên xã hội XHCN và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu… phải trải qua”. Tư tưởng này sau đó được V.I. Lênin phát triển thành quan điểm, rằng một số nước, dân tộc thuộc địa, phụ thuộc có thể tiến lên CNXH mà “không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng được phát triển và hoàn thiện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của Nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Có thể thấy rằng, trong suốt 95 năm qua, con đường Việt Nam lựa chọn và kiên trì thực hiện là quá trình quá độ lên CNXH, tức là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng ta xác định việc “bỏ qua” này chính là không thiết lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Khi đánh giá công lao to lớn của Ph.Ăng-ghen đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới, Lênin viết: “Sau bạn ông là Các Mác, Ph.Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh.
Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác và Ph.Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn hiểu Ph.Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Các Mác đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại”.
Trong suốt quá trình ấy, nhiều bước đi, nhiều mô hình và hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đan xen, cạnh tranh và luôn diễn ra sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Đây là đặc trưng cơ bản và mang tính bản chất, tạo nên sự khác biệt giữa hình thái kinh tế - xã hội XHCN và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Quan điểm này cho thấy Đảng ta đã kế thừa và phát triển tư duy biện chứng của Ph.Ăng-ghen về con đường đi lên CNXH; trong đó, tư tưởng “phát triển rút ngắn” của Ph.Ăng-ghen được vận dụng thành quan điểm “bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta đã xác lập mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống Nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…
Trong đó, đặc trưng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được Đảng ta bổ sung, phát triển và khẳng định trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng: xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, vì Nhân dân phục vụ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm” nay được cụ thể hóa bằng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện đại, nhân văn, liêm chính, phục vụ.
Nhìn lại tiến trình cách mạng của dân tộc, từ cuộc đấu tranh giành độc lập đến công cuộc xây dựng đất nước và những thành tựu sau gần 40 năm đổi mới, có thể khẳng định: “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ngày càng được nâng cao.
Thực tiễn đó cho thấy, lựa chọn con đường quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là quyết định đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhân dân ta, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử của Việt Nam; đồng thời, tạo nền tảng vững chắc để hướng tới mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển với nền quản trị dân chủ, pháp quyền, văn minh.
Có thể khẳng định rằng, toàn bộ cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của Ph.Ăng-ghen là một hành trình bền bỉ, rực sáng những chân lý khoa học và nhân sinh quan cộng sản. Cho đến nay, tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về quy luật phát triển xã hội và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn nguyên giá trị, tiếp tục soi đường cho phong trào cách mạng thế giới và Việt Nam.
Những thành tựu toàn diện mà đất nước ta đạt được hôm nay chính là minh chứng thuyết phục cho sức sống bền vững của tư tưởng Ph.Ăng-ghen, của chủ nghĩa Mác - Lênin khi được vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
Điều đó tiếp tục củng cố niềm tin vào con đường đi lên xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn; tạo động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu đưa đất nước vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, con đường của độc lập, tự do, công bằng, văn minh và bình đẳng.











