Nhiều kết quả nổi bật từ chương trình giảm nghèo bền vững
Chương trình đã góp phần thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1-1,5%/năm, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm từ 3%/năm, tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4-5%/năm.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng trình bày báo cáo của Chính phủ. Ảnh: CTTĐT Quốc hội
Chiều ngày 29/9, tại trụ sở các cơ quan của Quốc hội, Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội tổ chức cuộc họp với đại diện lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghe báo cáo về kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 và các kiến nghị, đề xuất định hướng cho giai đoạn 2026 - 2030 liên quan đến nội dung này.
Trình bày báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 của Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng cho biết, Chương trình đã đạt và vượt các chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm do Quốc hội và Chính phủ giao.
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đến cuối năm 2024 còn 1,93%, (tỷ lệ đầu kỳ là 5,2%, bình quân giảm 1,03%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao giảm từ 1-1,5%/năm. Dự kiến đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều trên cả nước sẽ chỉ còn khoảng 1%.
Tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo cuối năm 2024 còn 24,86% (tỷ lệ đầu kỳ là 44,97%, bình quân giảm 6,7%), vượt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao giảm từ 4-5%/năm.
Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số cuối năm 2024 còn 12,55% (tỷ lệ đầu kỳ là 25,91%, bình quân giảm 4,45%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao giảm từ 3%/năm.
Về phát triển hạ tầng thiết yếu, Chương trình đã đầu tư xây dựng mới 2.616 công trình hạ tầng và duy tu bảo dưỡng 2.340 công trình tại các huyện nghèo và xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo. Những nỗ lực này đã giúp 19/54 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đạt chuẩn nông thôn mới, vượt chỉ tiêu 30% được giao (đạt 35,18%). Đồng thời cải thiện đáng kể điều kiện sống, hỗ trợ sản xuất, thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực nghèo với các vùng khác.
Về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu, Chương trình đã triển khai 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo, thu hút 205.585 hộ dân tham gia. Các mô hình này không chỉ tạo sinh kế bền vững, tăng thu nhập mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động tại các địa phương nghèo, từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung, gắn với chuỗi giá trị. Trong đó 6.174 dự án hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đã giúp 99.594 hộ cải thiện phương thức canh tác, áp dụng công nghệ cao, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Chương trình cũng giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và an sinh xã hội, giải quyết các chiều thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản. Gần 125.000 lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đã được hỗ trợ kết nối việc làm thành công, vượt mục tiêu tối thiểu 100.000 lao động. Gần 6.300 phiên giao dịch việc làm được tổ chức và hơn 1,1 triệu người sử dụng lao động cùng gần 3 triệu người tìm việc đã được cập nhật thông tin vào cơ sở dữ liệu quốc gia.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dưới 16 tuổi giảm còn 26,43%, vượt chỉ tiêu dưới 34%. Gần 200.000 trẻ em và gần 130.000 phụ nữ mang thai đã được hỗ trợ bổ sung vi chất dinh dưỡng. Đến hết tháng 8 năm 2025, Chương trình hỗ trợ xây dựng mới, sửa chữa nhà ở cho gần 90.000 hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn huyện nghèo. Đây là một đóng góp tích cực vào phong trào thi đua “Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát”.
Đề xuất lồng ghép với chương trình xây dựng nông thôn mới
Tuy nhiên, báo cáo của Chính phủ cũng cho thấy kết quả giảm nghèo tại một số vùng khó khăn như Trung du, miền núi phía Bắc và Tây Nguyên còn hạn chế; nhiều địa phương chậm bố trí vốn đối ứng, lập kế hoạch và triển khai thực hiện; phân bổ nguồn lực từ trung ương về địa phương chưa kịp thời, dồn vào cuối năm; mô hình giảm nghèo một số nơi còn thiếu bền vững…
Báo cáo nhấn mạnh, từ giai đoạn 2026-2035, việc tích hợp chương trình giảm nghèo và chương trình xây dựng nông thôn mới là bước đi chiến lược. Việc hợp nhất này sẽ tránh trùng lặp chính sách, thống nhất mục tiêu và tập trung nguồn lực, thể hiện tư duy mới trong điều hành chính sách - từ hỗ trợ sang trao quyền, từ trợ cấp sang phát triển bao trùm và bền vững, từ ngân sách nhà nước là chính sang vai trò vốn mồi, dẫn dắt, tạo phong trào.
Do đó Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Lâm Văn Đoan nêu ý kiến. Ảnh: CTTĐT Quốc hội
Đại diện cơ quan thẩm tra, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Lâm Văn Đoan đánh giá cao việc hợp nhất Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới. Theo ông, việc thiết kế chương trình mới này sẽ là một thay đổi cơ bản, được kỳ vọng sẽ khắc phục nhiều tồn tại của giai đoạn trước.
Cùng với đó, việc Chính phủ đề xuất sẽ ban hành một chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030, bảo đảm thu nhập và mức sống tối thiểu cho người dân, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là một bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, cần xác định rõ “mức sống tối thiểu” là gì, nên tham khảo các ngưỡng chuẩn quốc tế phù hợp với mục tiêu Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, thay vì chọn ngưỡng quá thấp. Đồng thời, cần cân nhắc việc không cố định một chuẩn nghèo cho cả giai đoạn 5 năm, vì điều này không còn phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và thông lệ quốc tế.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Lâm Văn Đoan cũng cho biết, thiết kế chương trình mới cần đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các địa phương, đặc biệt là cấp xã; cần có sự tính toán tổng thể đảm bảo các chương trình mục tiêu quốc gia được thiết kế đồng bộ, tránh tình trạng “vênh” về cơ chế, chính sách gây khó khăn cho việc lồng ghép và thực thi sau này.