Nợ xấu tăng hơn 19%, ngân hàng gia cố 'lá chắn' rủi ro
Đến cuối quý III/2025, tổng nợ xấu (nhóm 3 - 5) của các ngân hàng niêm yết đạt khoảng 274.050 tỷ đồng, tăng 19,1% so với cuối năm 2024, tương ứng thêm 44.000 tỷ đồng, trong đó, nợ có khả năng mất vốn chiếm hơn 50%. Dù vậy, đà tăng nợ xấu chậm lại sau quý đầu năm, ba ngân hàng ghi nhận giảm nợ xấu, cùng phần lớn tăng trích lập dự phòng củng cố 'bộ đệm' chống rủi ro.
Nợ xấu tăng hơn 44.000 tỷ đồng sau 9 tháng, nợ nhóm 5 chiếm trên 50%
Theo khảo sát của phóng viên, đến cuối quý III/2025, tổng nợ xấu (nhóm 3 - 5) của 27 ngân hàng niêm yết đạt khoảng 274.050 tỷ đồng, tăng 19,1% so với cuối năm 2024, tương ứng tăng thêm 44.004 tỷ đồng trong 9 tháng 2025. Tốc độ phình to của nợ xấu cao hơn tăng trưởng cho vay khách hàng (15%), phản ánh chất lượng tín dụng toàn ngành vẫn chịu áp lực, dù tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức tích cực.
Cụ thể, quý I/2025 ghi nhận đợt tăng mạnh nhất khi nợ xấu tăng 15,4% so với cuối năm 2024, đạt hơn 265.500 tỷ đồng, chủ yếu do các khoản nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) cùng tăng mạnh hai chữ số.

Dù tăng trưởng tích cực, song chất lượng tín dụng vẫn chịu áp lực vì nợ xấu. Ảnh: Dũng Minh
Sang quý II/2025, quy mô nợ xấu chỉ nhích thêm 1,2% so với quý trước, trong khi dư nợ cho vay tăng 6,6%, giúp tỷ lệ nợ xấu toàn ngành giảm nhẹ.
Đến quý III, nợ xấu tăng thêm 2,3% so với quý II, nhưng dư nợ mở rộng thêm 4,6% khiến tỷ lệ nợ xấu nhóm ngân hàng niêm yết duy trì quanh 2%, thấp hơn con số 2,2% quý I.
Xét về cơ cấu, nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng nhanh nhất, từ 53.435 tỷ đồng cuối năm 2024 lên 72.407 tỷ đồng cuối quý III/2025, tương đương tăng 35,5%, cho thấy nhiều khoản vay đang có dấu hiệu chuyển nhóm có rủi ro mất vốn.
Đáng chú ý, đến cuối quý III/2025, nợ nhóm 5 - các khoản nợ có khả năng mất vốn tiếp tục tăng 11,7% so với cuối năm 2024 và vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, hơn 54% tổng nợ xấu toàn ngành. Trong số 27 ngân hàng được khảo sát, có tới 9 ngân hàng ghi nhận tỷ trọng nợ nhóm 5 vượt 70%, gồm cả nhóm "big 4", cho thấy rủi ro mất vốn vẫn ở mức cao và tập trung tại một số tổ chức tín dụng.
Tựu trung, nợ xấu toàn ngành ngân hàng nhích lên qua các quý trong năm 2025, nhưng tốc độ tăng chậm dần. Tuy vậy, nợ nghi ngờ tăng cao cảnh báo nguy cơ hình thành nợ mất vốn mới nếu môi trường kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp không được cải thiện trong các quý tới.
Nhiều ngân hàng"ngược dòng", củng cố chất lượng tín dụng
Trong bối cảnh toàn ngành nợ xấu các ngân hàng vẫn nhích tăng, vẫn có những trường hợp kiểm soát tốt chất lượng tín dụng. Điển hình là ba ngân hàng: NCB ghi nhận tổng nợ xấu giảm mạnh 37,7% so với cuối năm 2024, tương đương giảm hơn 5.200 tỷ đồng; ABBank giảm 23,3% (khoảng 860 tỷ đồng); còn ACB giảm hơn 1.300 tỷ đồng, tương ứng 15,3%.
Theo đại diện NCB, kể từ khi có sự tham gia của đội ngũ quản trị và điều hành mới từ năm 2021, ngân hàng đã thực hiện tái thiết toàn diện, củng cố nội lực và xử lý dứt điểm các tồn đọng kéo dài. Năm 2025, NCB ghi nhận kết quả kinh doanh khả quan, trong đó, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ được kiểm soát chặt chẽ, đúng lộ trình theo phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt.
Nợ xấu mới giảm tốc, nhưng rủi ro vĩ mô vẫn cần theo dõi sát
"Tỷ lệ hình thành nợ xấu mới hình thành đạt đỉnh vào cuối năm 2023 và giảm dần qua các quý gần đây. Tỷ lệ nợ xấu giảm, tỷ lệ hình thành nợ xấu giảm, chất lượng tài sản đang cải thiện. Tuy nhiên, không thể bỏ qua rủi ro liên quan đến vĩ mô, đặc biệt là thuế quan, có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong quý IV/2024, điều này cần theo dõi sát sao" - ông Nguyễn Thanh Tùng - đại diện HSC nhìn nhận.
Song song với đó, NCB tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý nợ và kiểm soát rủi ro tín dụng mới, ưu tiên cấp vốn cho khách hàng có năng lực tài chính minh bạch, hoạt động hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ trong quy trình tín dụng cũng được đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thẩm định, giám sát và quản lý rủi ro. Nhờ đó, chất lượng tín dụng của NCB tiếp tục cải thiện tích cực, tỷ lệ nợ xấu với các khoản giải ngân mới duy trì dưới 1%.
Tương tự, chất lượng tài sản của ACB cải thiện rõ nét trong quý III/2025. Theo đại diện ACB, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng giảm còn 1,09%, thuộc nhóm thấp nhất ngành, thể hiện năng lực điều hành ổn định và quản trị rủi ro chủ động. Cùng với đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) tăng thêm 9,2 điểm phần trăm so với quý trước, đạt 84%, đây là mức cao trong hệ thống. Tỷ lệ nợ nhóm 2 cũng được kiểm soát tốt ở 0,48%, cho thấy rủi ro tín dụng tiếp tục được kiềm chế.
Theo đánh giá của ông Nguyễn Thanh Tùng - Trưởng phòng Nghiên cứu ngành Dịch vụ Tài chính Công ty cổ phần Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSC), khi nhìn vào tỷ lệ nợ xấu của 14 ngân hàng trong phạm vi phân tích của HSC, có thể thấy, chất lượng tài sản dần cải thiện. Ngoại trừ năm 2023 có mức tăng nhẹ do tăng trưởng GDP chậm, đến năm 2024, tỷ lệ nợ xấu ổn định trở lại. Tỷ lệ nợ xấu tính thêm cả nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) đạt đỉnh vào quý II/2023 và có xu hướng giảm.
Việc luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 về cơ chế thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng vào Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) năm 2025, có hiệu lực từ ngày 1/8/2025, cũng được kỳ vọng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng toàn hệ thống, thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý xử lý nợ xấu và cơ chế thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm hiệu quả hơn.
Theo FiinRatings, đây là một trong số ít nghị quyết được luật hóa, thể hiện quyết tâm của cơ quan quản lý trong việc chuyển cơ chế thí điểm thành quy định lâu dài, ổn định. Trên thực tế, cơ chế xử lý tài sản bảo đảm không qua tòa án được áp dụng từ lâu trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia. Chẳng hạn, tại Hong Kong, bên cho vay hoặc đơn vị quản lý tài sản có thể thu giữ, quản lý và trong một số trường hợp nhất định được phép bán tài sản thế chấp mà không cần khởi kiện ra tòa. Tại Úc, bên nhận bảo đảm cũng được quyền thu giữ tài sản thế chấp bằng bất kỳ phương thức hợp pháp nào, nếu bên vay vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận bảo đảm.
Nhóm phân tích FiinRatings cho rằng, các quy định mới sẽ tiếp tục hỗ trợ mạnh nhóm ngân hàng quốc doanh và tư nhân lớn. Bởi nhóm ngân hàng này có quy mô vốn lớn, năng lực quản trị rủi ro tốt nên thích ứng nhanh với cơ chế xử lý nợ xấu. Tỷ lệ thu hồi nợ xấu của nhóm top 4 ngân hàng tư nhân tăng mạnh từ 8% năm 2016 lên 45% năm 2022, trong khi các ngân hàng quốc doanh cũng cải thiện đáng kể, từ 14% lên gần 39%. Ngược lại, các ngân hàng quy mô nhỏ gần như không hưởng lợi đáng kể, khi tỷ lệ thu hồi nợ xấu chỉ quanh 0 - 10% trong giai đoạn 2012 - 2025.
Tăng trích lập dự phòng, củng cố vững “lá chắn” rủi ro tín dụng
Thống kê của phóng viên cũng cho thấy, tính đến cuối quý III/2025, tổng dự phòng rủi ro cho vay khách hàng của 27 ngân hàng niêm yết đạt khoảng 230.000 tỷ đồng, tăng 11,3% so với cuối năm 2024. Việc tăng trích lập diễn ra trong bối cảnh nợ xấu toàn ngành tiếp tục nhích lên, phản ánh xu hướng chủ động củng cố “bộ đệm” an toàn trước áp lực tín dụng.
Theo đó, Sacombank ghi nhận mức tăng dự phòng mạnh nhất, tăng 75,3% lên trên 15.500 tỷ đồng, cho thấy ngân hàng đang đẩy nhanh quá trình làm sạch bảng cân đối và xử lý nợ tồn đọng. Theo sau là VietABank (tăng 34,6%), Techcombank (tăng 31,4%), TPBank (tăng 30,5%), PGBank (tăng 28%)... đều tăng trích lập hai chữ số.
Ở chiều ngược lại, ACB (giảm 8,7%) giảm trích lập rõ rệt nhờ chất lượng tài sản cải thiện mạnh, tỷ lệ nợ xấu thấp và khả năng thu hồi nợ tốt, giúp giảm chi phí tín dụng; VIB cũng mạnh tay giảm dự phòng 14,4% còn gần 4.900 tỷ đồng.
Các ngân hàng duy trì tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100% gồm Vietcombank, VietinBank, Techcombank và BacABank, cho thấy năng lực tài chính vững và khả năng dự phòng rủi ro tốt để xử lý các khoản nợ xấu.












