Nội địa hóa công nghệ để phát triển điện hạt nhân dài hạn

Ngày 4/11, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Lâm Đồng) đề cập đến triển khai chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia.

Bà Trịnh Thị Tú Anh phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Bà Trịnh Thị Tú Anh phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Bà Trịnh Thị Tú Anh cho rằng cần xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết của quốc gia cho phát triển điện hạt nhân. Dự án điện hạt nhân không chỉ đơn thuần là dự án năng lượng, mà nó là một cam kết quốc gia về bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân, xây dựng đầy đủ khuôn khổ luật pháp và pháp quy hạt nhân, được cấp phép và giám sát trong toàn bộ vòng đời của nhà máy, cũng như xây dựng năng lực ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân, tham gia cơ chế quốc tế về bồi thường thiệt hại hạt nhân. Đây là điều kiện cần, là yêu cầu bắt buộc theo hướng dẫn của IAEA để một quốc gia phát triển điện hạt nhân phải xây dựng đủ các cơ sở hạ tầng cần thiết này.

Theo bà Anh, Việt Nam đã ký kết cơ bản hết các điều ước quốc tế về an toàn, an ninh và không phổ biến vũ khí hạt nhân. Vấn đề hiện nay là xây dựng năng lực và cơ chế để tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế này. Đặc biệt, phải quan tâm xây dựng năng lực kỹ thuật giám sát việc thực thi hiệp định về không phổ biến vũ khí hạt nhân để làm công cụ hỗ trợ đấu tranh pháp lý khi có những bất lợi trong quan hệ quốc tế. Cần sớm tham gia điều ước quốc tế về bồi thường hạt nhân trước khi ký Hiệp định liên chính phủ về xây dựng nhà máy điện hạt nhân với các đối tác.

Cũng theo bà Anh, cần chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực điện hạt nhân.

Đây là cơ sở bảo đảm sự thành công của chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia. Tuy nhiên, đề án 1558 trước đây và đề án 1012 hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu. Lý do, đề án chưa có cơ sở vì chúng ta chưa phê duyệt Chương trình phát triển điện hạt nhân dài hạn của quốc gia sẽ như thế nào?

“Chúng ta sẽ phát triển điện hạt nhân như thế nào thì sẽ phải đào tạo để đạt được mục tiêu và hiện chỉ tập trung vào đào tạo chuyên ngành hạt nhân là chưa đủ. Nhân lực trong nhà máy điện hạt nhân cần rất nhiều chuyên ngành, trong đó chuyên ngành hạt nhân chỉ chiếm dưới 10%. Còn việc đào tạo nhân lực cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 sẽ nằm trong hợp đồng chìa khóa trao tay với đối tác nước ngoài. Trong đề án lại chưa có nội dung tường minh về đào tạo nhân lực cho Cơ quan pháp quy hạt nhân – một chủ thể quan trọng trong triển khai điện hạt nhân”, bà Anh đặt vấn đề.

Đặc biệt, đối với dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 thì cả chủ đầu tư và cơ quan pháp quy hạt nhân đều phải sử dụng tư vấn quốc tế hỗ trợ như Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế đặc biệt đã cho phép. Do đó đào tạo tốt nhất là qua công việc (OJT) và qua tham gia thực hiện dự án (OJP) cùng đối tác như kinh nghiệm của Hàn Quốc đã rất thành công. Các nội dung này cần phải đưa vào trong hợp đồng tư vấn hỗ trợ cho chủ đầu tư và cho Cơ quan pháp quy hạt nhân.

Đối với lựa chọn công nghệ, làm chủ và nội địa hóa công nghệ, bà Anh cho hay, công nghệ điện hạt nhân cũng thuộc loại công nghệ lưỡng dụng. Nếu làm chủ công nghệ điện hạt nhân như Hàn Quốc hay Nhật Bản họ có thể chuyển mục tiêu sử dụng trong thời gian rất ngắn. Vì vậy, làm chủ và nội địa hóa công nghệ điện hạt nhân là một mục tiêu quan trọng của Chương trình phát triển điện hạt nhân dài hạn của quốc gia.

Bà Anh phân tích: Hiện nay dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 được đề xuất làm với Nga và Ninh Thuận 2 làm với Nhật. Đối với dự án của Nga chúng ta sẽ dừng ở mức làm chủ công nghệ để vận hành an toàn và khai thác hiệu quả nhà máy, còn đối với dự án của Nhật chúng ta sẽ làm chủ và nội địa hóa để có thể trở thành nhà cung cấp nhà máy điện hạt nhân trong tương lai như mô hình Pháp, Nhật và Hàn đã làm. Tuy nhiên, cũng cần có các nghiên cứu sâu hơn về thị trường vì đầu tư để trở thành một nhà cung cấp là rất tốn kém.

Hàn Quốc làm điện hạt nhân năm 1971 đến năm 1987 họ đã có thể làm Tổng thầu EPC của dự án điện hạt nhân (16 năm) thông qua 9 dự án. Bối cảnh Hàn Quốc những năm 1970 kém hơn với Việt Nam hiện nay, do đó chúng ta có thể rút ngắn thời gian làm chủ và nội địa hóa. Bài học của Hàn Quốc rất đáng để chúng ta học tập.

Liên quan đến công nghệ lò công suất nhỏ dạng module (SMR), bà Anh diễn giải: Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt công nghệ chiến lược quốc gia, trong đó có công nghệ lò SMR. Tuy nhiên, trên thế giới có khoảng 80 loại thiết kế SMR và chúng ta nên chọn công nghệ nào và sẽ phát triển công nghệ SMR ra sao?

“Theo tôi, nước ta là một quốc gia biển đảo, cho nên chúng ta nên ưu tiên lựa chọn SMR loại nhà máy điện hạt nhân nổi vừa phục vụ phát triển kinh tế, vừa bảo đảm chủ quyền an ninh biển đảo, trước khi lựa chọn loại công nghệ khác. Nhà máy điện hạt nhân nổi vừa cung cấp điện vừa cung cấp nước ngọt. Nga đã đưa vào vận hành nhà máy điện hạt nhân nổi từ 5/2020, Trung Quốc có kế hoạch xây dựng 20 chiếc với mục tiêu: Hỗ trợ hạ tầng năng lượng tại các đảo nhân tạo, vùng biển xa và phục vụ khai thác dầu khí, đặc biệt ở Biển Đông, nhằm phục vụ các cơ sở quân sự hoặc dân sự trên đảo; và Mở rộng hệ thống năng lượng đến vùng xa xôi không kết nối lưới điện lục địa như ở biển Hoàng Hải, Biển Đông. Có lẽ mục tiêu của chúng ta phát triển SMR cũng như vậy. Để phát triển công nghệ SMR này, chúng ta không nên tự làm từ đầu mà nên mua của đối tác nước ngoài có kinh nghiệm và thảo luận về khả năng chuyển giao công nghệ và nội địa hóa cho Việt Nam”, bà Anh cho hay.

Việt Thắng - Trung Hiếu

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/noi-dia-hoa-cong-nghe-de-phat-trien-dien-hat-nhan-dai-han.html