Nuôi cua bằng công nghệ số, một doanh nghiệp tại Hưng Yên xuất bán hàng trăm tấn mỗi năm
Chỉ nuôi một mùa, nhưng mỗi năm xuất khẩu hàng trăm tấn cua cà ra, loài đặc sản khó tính bậc nhất. Bí quyết của doanh nghiệp Minh Phú tại Hưng Yên là gì? Áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), drone, và nuôi sinh thái, họ đang biến bài toán khó của ngành thủy sản thành cơ hội xuất khẩu bạc tỷ.
Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản đang chịu sức ép lớn từ biến đổi khí hậu, rủi ro dịch bệnh và yêu cầu ngày càng cao từ thị trường xuất khẩu, Công ty Cổ phần Quốc tế Minh Phú (Hưng Yên) đã nổi lên như một ví dụ điển hình cho xu hướng chuyển đổi số và nuôi trồng bền vững. Với mô hình nuôi cua cà ra ứng dụng công nghệ số toàn diện, doanh nghiệp này đang đạt sản lượng hàng trăm tấn mỗi năm và ghi nhận các đơn hàng lớn từ thị trường quốc tế.

Ông Trần Văn Vân, Giám đốc Công ty CP Quốc tế Minh Phú (Hưng Yên).
Cua cà ra là một loại thủy sản đặc hữu có giá trị kinh tế cao nhưng đòi hỏi điều kiện nuôi nghiêm ngặt, đặc biệt về môi trường nước và vệ sinh sinh học. Với đặc tính nhạy cảm, loài cua này chỉ thích hợp nuôi vào một mùa trong năm (từ tháng 9 đến tháng 12) và yêu cầu môi trường sống gần như tự nhiên, không nhiễm độc và ít biến động.
“Bỏ túi” tiền tỷ nhờ ứng dụng công nghệ số
Chính vì vậy, mặc dù giá thu mua hiện nay dao động từ 360.000 đến 420.000 đồng/kg tùy kích cỡ, nhưng không nhiều cơ sở có thể phát triển được mô hình nuôi quy mô lớn và ổn định. Minh Phú hiện đang là một trong số ít doanh nghiệp kiểm soát thành công quy trình này trên diện tích hơn 100 ha, nhờ vào chiến lược ứng dụng công nghệ số bài bản.
Trao đổi cùng VnBusiness bên lề Diễn đàn "Ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp: Đổi mới để phát triển và bảo vệ môi trường" ngày 18/9, ông Trần Văn Vân, Giám đốc Công ty CP Quốc tế Minh Phú cho biết: doanh nghiệp đã đầu tư hệ thống AI để phân tích dữ liệu môi trường, tích hợp cảm biến quan trắc tự động và sử dụng thiết bị bay không người lái (drone) để cho ăn, những bước đi mang tính đột phá giúp giảm thiểu chi phí vận hành, tối ưu hóa sản lượng và giảm rủi ro.
“Nhờ hệ thống AI phân tích liên tục các chỉ số như độ mặn, nhiệt độ, độ pH và chất lượng nước, chúng tôi có thể đưa ra các cảnh báo sớm và chủ động điều chỉnh môi trường ao nuôi,” ông Vân nhấn mạnh.

Mô hình nuôi cua cà rá của Công ty CP Quốc tế Minh Phú tại tỉnh Hưng Yên.
Việc sử dụng drone để rải thức ăn cũng giúp đảm bảo định lượng đồng đều trên diện rộng, giảm hao hụt và tiết kiệm nhân công. Với diện tích hơn 100 ha, nếu làm theo phương pháp truyền thống, chi phí lao động sẽ rất lớn và khó kiểm soát được độ chính xác trong cung cấp thức ăn.
Bên cạnh việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất, Minh Phú cũng là một trong những doanh nghiệp nông nghiệp tiên phong triển khai chiến lược bán hàng số hóa. Thông qua các nền tảng mạng xã hội như TikTok, Facebook, Zalo và sàn thương mại điện tử như Alibaba, doanh nghiệp đã mở rộng tệp khách hàng và ký kết nhiều đơn hàng lớn.
“Từ các nền tảng đó, chúng tôi đã tìm kiếm được những khách hàng với các đơn đặt lớn từ các thị trường Đài Loan (Trung Quốc), Hồng Kông, Singapore, Malaysia,...”, giám đốc Công ty Minh Phú chia sẻ.
Tính đến hết tháng 8, doanh nghiệp đã ghi nhận nhiều đơn hàng từ các thị trường trong khu vực ASEAN, trong đó có đơn hàng lên tới 650 tấn từ một đối tác quốc tế, một con số đáng chú ý với một sản phẩm đặc thù, khó nuôi như cua cà ra.
Trồng rong thủy sinh giúp con giống khỏe, bảo vệ môi trường
Minh Phú không chỉ dừng lại ở khía cạnh chuyển đổi số mà còn chú trọng phát triển mô hình nuôi trồng sinh thái, thân thiện với môi trường. Doanh nghiệp đã triển khai trồng rong thủy sinh trong ao nuôi để xử lý chất thải hữu cơ, thức ăn dư thừa, đồng thời cân bằng hệ sinh thái tự nhiên cho vật nuôi.
“Con cua cà ra được nuôi với diện tích rất lớn nên việc quản lý dịch bệnh rất là quan trọng,” ông Vân thông tin.

Cua cà ra được nuôi theo mùa. Một năm, Cua cà ra được nuôi và thu – bán 1 lần trong năm, từ tháng 9 – tháng 12. Hiện giá thu mua cà ra tại các hộ dân từ 360.000đ/kg đến 420.000đ/kg tùy kích cỡ.
Sau một số năm thí nghiệm từ thực tế, cho thấy cây rong có tác dụng xử lý chất thải, thức ăn dư thừa của vật nuôi và cân bằng lại môi trường tạo ra một hệ sinh thái giống như ngoài tự nhiên.
Theo ông Vân, mô hình này cho thấy hiệu quả rõ rệt sau vài vụ nuôi: “Chúng tôi gần như không phải sử dụng hóa chất xử lý môi trường, không dùng kháng sinh và chi phí vận hành giảm mạnh. Hơn nữa, khi môi trường ổn định, cua khỏe mạnh, chất lượng đồng đều và đầu ra thuận lợi.”
Đó là một trong minh chứng cho thấy công nghệ nuôi bền vững sẽ ngày càng được chú trọng và chiếm ưu thế trong thời gian tới. Từ công nghệ nuôi trồng như trên, đại diện DN cho biết sẽ ứng dụng sang với môi trường nuôi con tôm, nuôi cá”.
Đây chính là hướng tiếp cận nông nghiệp tuần hoàn, không những tiết kiệm chi phí mà còn đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững, những yếu tố sống còn khi tham gia vào chuỗi giá trị xuất khẩu.
Dù mô hình của Minh Phú cho thấy hiệu quả rõ rệt, song không dễ để nhân rộng ngay lập tức ra toàn ngành. Theo ông Vân, những mô hình nuôi như trên hiện chỉ các DN lớn mới đủ điều kiện thực hiện, còn các hộ nuôi nhỏ lẻ hiện vẫn gặp rào cản lớn về vốn đầu tư, thiết bị công nghệ, con giống cũng như kỹ thuật nuôi trồng... Do đó, để phát triển mô hình bền vững trên diện rộng, rất cần sự vào cuộc mạnh mẽ từ chính quyền, Trung tâm khuyến nông, Liên minh HTX và các tổ chức tín dụng.
“Bà con cần được hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, hỗ trợ con giống, thức ăn, và các lớp tập huấn về sử dụng thiết bị công nghệ. Khi đó, hiệu quả sẽ lan tỏa ra toàn cộng đồng nuôi trồng,” ông Vân chia sẻ.
Mô hình nuôi cua cà ra của Minh Phú là minh chứng rõ ràng cho thấy: chuyển đổi số trong nông nghiệp không còn là khái niệm lý thuyết, mà đang được hiện thực hóa rõ nét trong thực tế sản xuất. Khi kết hợp đúng đắn giữa công nghệ, sinh thái, thị trường, doanh nghiệp có thể vừa đảm bảo sản lượng, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời giảm chi phí và bảo vệ môi trường.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh chương trình nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, mô hình này có thể xem là một hình mẫu để nghiên cứu, hỗ trợ nhân rộng, với điều kiện có cơ chế chính sách phù hợp, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực cho người sản xuất.