Phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn theo ba tiêu chí

Bộ Nông nghiệp và Môi trường quy định phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn trên cơ sở kết hợp ba tiêu chí: mức độ hiệu quả kinh tế, mức độ đánh giá khả thi về kỹ thuật công nghệ và mức độ tin cậy địa chất.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã quy định cụ thể về việc phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã quy định cụ thể về việc phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn

Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) vừa ban hành thông tư số 40/2025/TT-BNNMT quy định cụ thể về việc phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn. Theo đó, việc phân cấp được thực hiện trên cơ sở kết hợp ba tiêu chí: mức độ hiệu quả kinh tế, mức độ đánh giá khả thi về kỹ thuật công nghệ và mức độ tin cậy địa chất.

Cụ thể, mức độ hiệu quả kinh tế được phân làm 3 mức: có hiệu quả kinh tế, có tiềm năng hiệu quả kinh tế và chưa rõ hiệu quả kinh tế.

Mức độ đánh giá khả thi về kỹ thuật công nghệ được phân làm 3 mức: đánh giá khả thi, đánh giá tiền khả thi và đánh giá khái quát.

Mức độ tin cậy địa chất có 4 mức: chắc chắn, tin cậy, dự tính và dự báo. Đối với mức dự báo được phân thành 2 phụ mức: suy đoán và phỏng đoán.

Tên cấp trữ lượng và cấp tài nguyên khoáng sản rắn được xác định theo các ký hiệu chữ số tuần tự theo từng mức độ (mức độ hiệu quả kinh tế, mức độ đánh giá khả thi về kỹ thuật công nghệ, mức độ tin cậy địa chất).

Thông tư còn nêu rõ yêu cầu về tính trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn. Theo đó, trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn được tính riêng cho từng loại khoáng sản, theo sự có mặt của khoáng sản trong lòng đất, không kể đến tổn thất do khai thác, chế biến. Đối với mỏ khoáng sản tổng hợp, trữ lượng và tài nguyên khoáng sản được tính bao gồm khoáng sản chính và khoáng sản đi kèm.

Trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn tính theo đơn vị khối lượng hoặc thể tích tùy theo mục đích sử dụng.

Chất lượng khoáng sản rắn xác định ở trạng thái tự nhiên trong lòng đất, không tính đến nghèo hóa do quá trình khai thác; theo mục đích sử dụng và công nghệ chế biến có tính đến khả năng thu hồi và sử dụng tối đa các thành phần có ích đi kèm.

Thông tư cũng quy định phương pháp, khối lượng công tác thăm dò đối với từng loại khoáng sản (trắc địa, công trình thăm dò, lấy mẫu, nghiên cứu khí mỏ, đánh giá mức độ ô nhiễm và tác động môi trường).

Ngoài ra, Thông tư quy định chi tiết phương pháp, khối lượng thăm dò đối với các loại khoáng sản cụ thể như vàng gốc, bauxit, than, đá carbonat, cát sỏi xây dựng, đá khối làm ốp lát; phương pháp, khối lượng thăm dò đánh giá trữ lượng nước nóng thiên nhiên, nước khoáng thiên nhiên; quy định mẫu và nội dung đề án thăm dò khoáng sản, đề án thăm dò bổ sung và báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản.

Trước đó, Bộ NN&MT cũng đã ban hành quy định về lập, thẩm định, phê duyệt đề án, dự án, nhiệm vụ, báo cáo kết quả điều tra cơ bản địa chất, điều tra địa chất về khoáng sản và công bố kết quả điều tra cơ bản địa chất.

Trong đó, nội dung công bố kết quả điều tra cơ bản địa chất gồm: Phạm vi đề án đã thực hiện; mức độ hoàn thành so với mục tiêu đề án đặt ra; các loại tài nguyên địa chất đã phát hiện và khoanh định trong quá trình thực hiện đề án điều tra cơ bản địa chất; định hướng quản lý tài nguyên địa chất; đối với tài nguyên khoáng sản công bố địa danh hành chính khu vực phân bố khoáng sản; loại khoáng sản, đặc điểm địa chất khoáng sản, chất lượng khoáng sản; quy mô tài nguyên và định hướng quản lý, sử dụng.

Thu Cúc

Nguồn Chính Phủ: https://baochinhphu.vn/phan-cap-tru-luong-va-tai-nguyen-khoang-san-ran-theo-ba-tieu-chi-102250903171913275.htm