Phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Yêu nước và đoàn kết là sản phẩm của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhân tố quyết định sức mạnh của dân tộc là tinh thần cố kết cộng đồng, là 'tình đồng chí, nghĩa đồng bào'. Từ sức mạnh truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, bài viết phân tích các luận điểm xây dựng đại đoàn kết của Bác Hồ và Đảng ta qua các thời kỳ, trong giai đoạn mới cần phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đã đặc biệt quan tâm đến việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, coi trọng việc xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, phát huy sức mạnh dân tộc gắn với sức mạnh quốc tế, sức mạnh truyền thống với sức mạnh thời đại nên đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đó là lịch sử ba cao trào cách mạng: Cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh (1930 - 1931); Cuộc vận động dân chủ (1936 - 1939); Cao trào cứu nước (1940 - 1945) đưa đến thắng lợi Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, lần đầu tiên thành công ở một nước thuộc địa, xóa bỏ chính quyền thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở đầu thời kỳ vùng dậy oanh liệt nhất, bước phát triển nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử lâu dài của dân tộc ta.

Đó là lịch sử một dân tộc nhỏ bé, lần đầu tiên đánh thắng một tên đế quốc hùng mạnh ở Điện Biên Phủ, thắng lợi lịch sử ấy đã giáng một đòn quyết định vào chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu quá trình sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

Đó là thắng lợi của cuộc cách mạng ruộng đất, xóa bỏ quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất, đánh đổ giai cấp địa chủ đã thống trị hàng ngàn năm ở nước ta, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”.

Đó là lịch sử một nước đất không rộng, người không đông, đã đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, để “Bắc Nam sum họp một nhà”.

Những chiến công oanh liệt mà Nhân dân ta giành được trong gần một thế kỷ qua là sự kết tinh và phát triển đến cao độ tinh thần đoàn kết dân tộc trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước, những phẩm chất cao quý nhất, vĩ đại nhất, đáng tự hào nhất của dân tộc ta.

Những chiến công đó càng khẳng định điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa I) họp tại Pác Bó (Cao Bằng): “Sử ta dạy cho ta bài học: Lúc nào dân ta đoàn kết thì nước ta độc lập, tự do; trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”1.

Hội nghị Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ 17, khóa IX.
ẢNH: KỲ ANH

Năm 1986, nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đất nước.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn, trong đó bài học đầu tiên là: “Đảng phải quán triệt, tư tưởng lấy dân làm gốc”2.

Từ đó đến nay qua các kỳ Đại hội, Đảng luôn khẳng định: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng Việt Nam”3.

Và đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm biến chiến lược đại đoàn kết thành hiện thực cuộc sống. Ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07/NQ/TW về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”.

Đến Đại hội VIII, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh Công - Nông - Trí thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài; có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”4.

Đại hội IX của Đảng (4/2001) cụ thể hóa một bước để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội là “động lực chủ yếu” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”5.

Đặc biệt, Hội nghị lần thứ XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ra Nghị quyết số 23/NQ/TW ngày 12/3/2003 “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Nghị quyết xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc “là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Đây là lần đầu tiên Đảng ta sử dụng thuật ngữ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” với hàm ý mở rộng khối đại đoàn kết: Không chỉ đoàn kết các lực lượng trong nước, mà còn đoàn kết với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài - một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Đây là bước phát triển mới về tư duy đại đoàn kết dân tộc của Đảng.

Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nâng lên một tầm cao mới. “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6.

Tại Đại hội XII và Đại hội XIII vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được Đảng khẳng định: “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”7.

Để triển khai đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đại hội Đảng các khóa đã đề ra tại các kỳ họp, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề phù hợp với từng đối tượng: “Về công tác tôn giáo”; “Về công tác dân tộc”; “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”; “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”; “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; “Về xây dựng đội ngũ trí thức”; “Về xây dựng đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”…

Triển khai các nghị quyết của Trung ương Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, dân tộc thiểu số, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài; các chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi… nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.

Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, vì sự nghiệp đại đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”.

Để đoàn kết bền vững, trước hết phải đoàn kết trong Đảng, coi đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền và Mặt trận phải thường xuyên lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của Nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để Nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của Nhân dân, thực hiện tốt nguyên tắc: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.

Qua hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, một cuộc cách mạng chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, song, với đường lối đúng đắn của Đảng, phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đất nước ta đã có bước phát triển vượt bậc: Kinh tế phát triển nhanh, ổn định; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện rõ rệt; quốc phòng, an ninh được bảo đảm; uy tín quốc tế được nâng cao. đúng như Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đất nước đứng trước nhiều thách thức, tác động đến tâm tư, tình cảm, đời sống của Nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ đến sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.Đó là sự phân hóa giàu - nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; việc vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận.

Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chĩa mũi nhọn tấn công hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tế nêu trên đã và đang tác động tiêu cực đến lòng tin của Nhân dân, trở thành thách thức đối với mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải chú trọng hơn nữa đến việc xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức cho phù hợp để Nhân dân có điều kiện phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có điều kiện phát huy tài năng, sức sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho bản thân và đất nước, chống lại hiệu quả âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Muốn đoàn kết thực sự, phải có dân chủ thực sự”.

Để tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để Nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình.

Trước hết, cần huy động sức dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện có hiệu quả Luật Dân chủ ở cơ sở, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc khuyến khích, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, phản biện và giám sát các chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh ở địa phương mình sinh sống và công tác; thường xuyên đối thoại với dân, lắng nghe, tiếp thu những sáng kiến, kiến nghị xác đáng; tập trung giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bức xúc, những nguyện vọng chính đáng của người dân; xử lý nghiêm các vụ việc tiêu cực, tham nhũng.

Đi đôi với việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, Đảng, Nhà nước cần tăng cường bồi dưỡng sức dân thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đảng, Nhà nước cần chú trọng ưu tiên phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và vùng đồng bào có đạo. Chính quyền các cấp cần quan tâm đến cuộc sống của từng hộ dân, nhất là dân vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; vận động Nhân dân giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc.

Phát huy vai trò của những người uy tín trong đồng bào dân tộc, các chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn, đồng thời tích cực đấu tranh, chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc và những hành vi tà đạo, mê tín, dị đoan, lợi dụng dân tộc, tôn giáo làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Để củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Đồng thời, với việc xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước cần đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, một đội ngũ “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân” gương mẫu, tận tụy với công việc; nói đi đối với làm, thực sự là công bộc của Nhân dân.

Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò nòng cốt.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, đoàn kết, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội… Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh - đại đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”8.

Để phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc cần tiếp tục đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, chú trọng mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tư vấn, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ chuyên trách Mặt trận và đoàn thể nhân dân; hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư; thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại.

Mặt trận cần tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần thi đua lao động sáng tạo của Nhân dân và sự chung sức của cả cộng đồng tham gia phục hồi và phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và với sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Nhân dân ta ra sức phấn đấu để sớm hoàn thành mục tiêu: Đưa đất nước trở thành quốc gia phát triển vào giữa thế kỷ XXI.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, tập 3, tr. 256.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 213.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 51. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 130.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 86.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 48.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 158.

8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 172.

Nguyễn Túc - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Nguồn Mặt Trận: http://tapchimattran.vn/dau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich/phat-huy-hon-nua-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-gop-phan-thuc-hien-thang-loi-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang-54175.html