Phát triển nguồn nhân lực lĩnh vực văn hóa trong kỷ nguyên mới
TS Mai Thị Thùy Hương, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam nhấn mạnh, bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của tri thức, công nghệ và sáng tạo – phát triển nguồn nhân lực văn hóa không còn là vấn đề chuyên ngành mà là một yêu cầu mang tính quốc gia.
Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XIV đang nhận được sự quan tâm, hưởng ứng, đóng góp sôi nổi của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đây là sự kiện chính trị quan trọng, nhằm tập hợp trí tuệ của toàn xã hội, đóng góp cho định hướng chiến lược phát triển của đất nước ta trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Trong đó, Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV đã kế thừa, tiếp thu, chắt lọc và nâng tầm nội dung định hướng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam tại các văn kiện cũng như các nghị quyết chuyên đề về văn hóa trước đây. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí hết sức quan trọng và đề ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới cho lĩnh vực văn hóa trong sự nghiệp phát triển đất nước.

Chương trình nghệ thuật "Hà Nội - Bản hùng ca phố" kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô.
Con người là trung tâm của văn hóa
Từ tinh thần chỉ đạo đó, TS Mai Thị Thùy Hương, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, trong tham luận tại Hội thảo khoa học hướng tới Đại hội XIV của Đảng, đã phân tích sâu sắc những điểm mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội, đặc biệt là việc định hướng phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa trong kỷ nguyên mới.
Theo TS Mai Thị Thùy Hương, trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước, câu chuyện văn hóa luôn quy tụ về con người. Không có con người, với tri thức, bản lĩnh và khát vọng, thì không có di sản nào được kế tục, không có sáng tạo nào được nảy nở, không có công nghiệp văn hóa nào đủ sức vươn ra thế giới.
“Trong bối cảnh đó, quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực văn hóa đã phát triển mạnh mẽ: từ trọng đức, trọng chính trị – tư tưởng ở thời kỳ đầu, đến trọng tài, trọng năng lực ở giai đoạn đổi mới, và ngày nay là kết hợp hài hòa đức – tài – văn hóa – số. Đội ngũ làm văn hóa không chỉ “giỏi nghề” mà còn phải “giỏi quản trị”, không chỉ nắm di sản mà còn biết số hóa di sản, không chỉ sáng tạo nội dung mà còn kiến tạo hệ sinh thái liên ngành kết nối công nghệ, du lịch, truyền thông, thị trường”, TS Mai Thị Thùy Hương nhấn mạnh.
Văn hóa là “nguồn năng lượng sáng tạo” nuôi dưỡng sức mạnh quốc gia
Phó Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam cho biết, điểm nhấn quan trọng của dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV là sự kế thừa và phát triển nhất quán tư tưởng “lấy con người làm gốc”, song được mở rộng và nâng lên một tầm cao mới: từ “con người mới xã hội chủ nghĩa” trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước, đến “nguồn nhân lực chất lượng cao” trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và nay là “nguồn nhân lực sáng tạo” – lực lượng làm chủ tri thức, công nghệ và văn hóa trong kỷ nguyên số.

TS Mai Thị Thùy Hương, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Ảnh: Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam)
Dự thảo còn đặt phát triển nguồn nhân lực văn hóa trong tổng thể chiến lược nhân lực quốc gia, coi đây là bộ phận đặc thù của nguồn lực con người Việt Nam – nơi kết tinh bản sắc, tri thức và năng lực sáng tạo. Đội ngũ cán bộ, văn nghệ sĩ, trí thức, nhà quản lý, doanh nhân văn hóa và công dân sáng tạo được nhìn nhận như những mắt xích trong hệ sinh thái văn hóa, có mối quan hệ tương tác chặt chẽ với giáo dục, khoa học – công nghệ, truyền thông, du lịch và kinh tế.
TS Mai Thị Thùy Hương phân tích, dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV cũng làm rõ hơn mối quan hệ giữa phát triển văn hóa – phát triển con người – phát triển xã hội. Nếu như trước đây, văn hóa thường được nhìn nhận như một “mặt trận” hay “trụ cột” tách biệt, thì nay, Đảng khẳng định đây là một chỉnh thể thống nhất, trong đó phát triển con người là trung tâm, văn hóa là nền tảng, và xã hội là không gian hiện thực hóa giá trị văn hóa.
Bà cho rằng dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV mở ra một chân trời tư duy mới – nơi văn hóa không chỉ là “hồn cốt dân tộc”, mà còn là “nguồn năng lượng sáng tạo” nuôi dưỡng sức mạnh quốc gia; nơi mỗi người làm văn hóa không chỉ là người giữ gìn quá khứ, mà còn là kiến trúc sư của tương lai; và nơi nhân lực văn hóa – với tri thức, bản lĩnh và khát vọng – trở thành nguồn lực cốt lõi để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới của phát triển sáng tạo và nhân văn.
Phát triển nguồn nhân lực văn hóa là yêu cầu mang tính quốc gia
Theo TS Mai Thị Thùy Hương, bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của tri thức, công nghệ và sáng tạo – phát triển nguồn nhân lực văn hóa không còn là vấn đề chuyên ngành mà là một yêu cầu mang tính quốc gia. Khi văn hóa trở thành một trụ cột phát triển cùng kinh tế và chính trị, khi các ngành công nghiệp văn hóa được xác định là động lực tăng trưởng mới, chất lượng và bản lĩnh của con người làm văn hóa chính là thước đo năng lực cạnh tranh của dân tộc.
Muốn đạt được mục tiêu ấy, cần có những giải pháp đột phá, đồng bộ và khả thi, vừa mang tính chiến lược dài hạn, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn trước mắt. TS Mai Thị Thùy Hương đưa ra 5 giải pháp cốt lõi, được đề xuất như những “trụ cột hành động” để hình thành đội ngũ “vừa hồng, vừa chuyên, vừa sáng tạo, vừa hội nhập”.

Đội ngũ cán bộ, văn nghệ sĩ, trí thức, nhà quản lý, doanh nhân văn hóa và công dân sáng tạo được nhìn nhận như những mắt xích trong hệ sinh thái văn hóa.
Thứ nhất, đổi mới căn bản công tác đào tạo và bồi dưỡng theo hướng chuyên nghiệp – linh hoạt – gắn thực tiễn. Công tác đào tạo nhân lực văn hóa lâu nay vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, nặng về truyền thụ, nhẹ về thực hành, xa rời nhu cầu xã hội. Muốn khắc phục tình trạng này, cần tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện, bắt đầu từ việc xây dựng khung năng lực nghề nghiệp ngành văn hóa – một hệ tiêu chí rõ ràng, cụ thể, đo lường được, làm căn cứ cho việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá cán bộ. Chương trình đào tạo phải chuyển từ “học để biết” sang “học để làm”, “học để sáng tạo”, gắn lý thuyết với thực tiễn, kết hợp hài hòa giữa tri thức truyền thống và kỹ năng số.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực số trong lĩnh vực văn hóa – trụ cột của thời đại mới. Nhân lực văn hóa trong thời đại số cần được trang bị các kỹ năng mới: tư duy dữ liệu, năng lực truyền thông đa phương tiện, quản trị bản quyền số, khai thác trí tuệ nhân tạo (AI) trong sáng tạo và quảng bá văn hóa. Bên cạnh đó, các trường văn hóa – nghệ thuật cần được hỗ trợ đầu tư hạ tầng số, phần mềm sáng tạo, phòng thu ảo, thư viện số… để đào tạo “thế hệ nghệ sĩ số” – những người có thể vừa sáng tạo, vừa kinh doanh, vừa lan tỏa văn hóa Việt Nam trên không gian mạng toàn cầu.
Thứ ba, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài văn hóa – tạo động lực cho sáng tạo. Văn hóa là lĩnh vực đặc thù, nơi tài năng và cảm hứng đóng vai trò then chốt. Tuy nhiên, chính sách đối với nhân tài văn hóa hiện nay vẫn còn khiêm tốn, chưa đủ sức khuyến khích và giữ chân những người có năng lực sáng tạo. Vì vậy, cần ban hành chính sách đãi ngộ đặc thù cho đội ngũ này, dựa trên nguyên tắc “tôn vinh – trọng dụng – khuyến khích sáng tạo”.
Thứ tư, xây dựng môi trường và hệ sinh thái sáng tạo – nền tảng cho phát triển bền vững. Phát triển nguồn nhân lực văn hóa cần gắn liền với xây dựng hệ sinh thái sáng tạo văn hóa – nơi các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng có thể tương tác, chia sẻ, hợp tác để tạo ra giá trị mới. Cần phát triển các không gian sáng tạo – trung tâm nghệ thuật, vườn ươm văn hóa, bảo tàng mở, nhà hát số, phố nghệ thuật, trung tâm truyền thông sáng tạo – như những “hệ sinh thái thu nhỏ” giúp nhân lực văn hóa được thực hành, biểu đạt và kết nối với công chúng.

Bước sang kỷ nguyên mới, phát triển nguồn nhân lực văn hóa không còn là vấn đề chuyên ngành mà là một yêu cầu mang tính quốc gia.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế, chính sách và quản trị nhà nước về phát triển nhân lực văn hóa. Để các giải pháp trên trở thành hiện thực, cần có một khung thể chế mạnh và đồng bộ. Trước hết, phải xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển nhân lực văn hóa đến năm 2045, gắn với Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa và Chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Chiến lược này cần xác định rõ mục tiêu, lộ trình, cơ chế điều phối và nguồn lực thực hiện.
TS Mai Thị Thùy Hương kết luận rằng, phát triển nguồn nhân lực văn hóa trong kỷ nguyên mới không chỉ là nhiệm vụ của ngành văn hóa, mà là sứ mệnh của quốc gia, của toàn xã hội. Đó là con đường để Việt Nam vừa giữ được bản sắc, vừa vươn tới sáng tạo; vừa gìn giữ giá trị truyền thống, vừa khẳng định tầm vóc mới của mình trong thế giới hội nhập.
Khi đội ngũ nhân lực văn hóa – với trí tuệ, tâm hồn và khát vọng – được nuôi dưỡng đúng tầm, đất nước ta sẽ có được một nền văn hóa thịnh vượng, một con người phát triển toàn diện, và một Việt Nam vươn mình mạnh mẽ, sánh vai cùng các cường quốc năm châu – như khát vọng mà Bác Hồ đã gửi gắm từ buổi đầu độc lập.












