Phát triển tư duy chiến lược, khẳng định vai trò tham mưu đặc biệt của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Nhiệm kỳ 2020-2025 là giai đoạn đất nước ta chịu nhiều tác động lớn của tình hình thế giới và khu vực, đồng thời cũng là thời điểm đánh dấu những bước phát triển quan trọng trong tư duy, tầm nhìn và năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng (QS, QP) của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã thể hiện rõ vai trò hạt nhân, lực lượng nòng cốt trong tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước về các vấn đề hệ trọng của quốc gia, giữ vững thế trận quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Tư duy chủ động, bám sát thực tiễn, kiến tạo chính sách hiệu quả
Một trong những thành tựu nổi bật được ghi nhận trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII là: Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã làm tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về QS, QP. Điều này không chỉ thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết, chiến lược quốc gia được ban hành mà còn được minh chứng rõ nét trong thực tiễn vận hành chính sách, xử lý tình huống và tổ chức lực lượng, phương tiện, thế trận quốc phòng trong suốt nhiệm kỳ vừa qua.
Trước hết, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa đường lối quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa-một trong những định hướng chiến lược quan trọng của Đảng ta trong nhiều năm qua. Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ này là tư duy chiến lược được cập nhật phù hợp với đặc điểm mới của chiến tranh hiện đại, trong đó có các yếu tố như an ninh phi truyền thống, công nghệ quân sự cao, không gian mạng và các hình thức cạnh tranh mềm về chính trị, ngoại giao, kinh tế.
Thực tiễn cho thấy, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã chủ động nghiên cứu, đề xuất và tham mưu hiệu quả cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng như: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Chiến lược quốc phòng Việt Nam; Chiến lược quân sự Việt Nam; Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia; Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Những chiến lược này không chỉ định hướng cho hoạt động QS, QP mà còn gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, củng cố “thế trận lòng dân” và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Lực lượng vũ trang diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9. Ảnh: TRỌNG HẢI
Điểm sáng trong công tác tham mưu chiến lược của Bộ Quốc phòng là khả năng bám sát thực tiễn, dự báo đúng và trúng những nguy cơ, thách thức mới, từ đó kiến nghị với Đảng, Nhà nước các đối sách phù hợp. Trong suốt giai đoạn dịch Covid-19 bùng phát, Bộ Quốc phòng đã chủ động huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch từ biên giới đến nội địa, xây dựng các khu cách ly, tổ chức lực lượng quân y chi viện cho các địa phương khu vực phía Nam, nhất là TP Hồ Chí Minh và các địa bàn trọng điểm. Không chỉ đóng góp về mặt lực lượng, trang bị, tổ chức, Quân đội còn là lực lượng nòng cốt trong định hướng dư luận xã hội, ổn định tình hình quốc phòng, an ninh, giữ vững niềm tin của nhân dân trong lúc khó khăn.
Trên mặt trận bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng kịp thời tham mưu các phương án đối phó, xử lý các tình huống nhạy cảm trên Biển Đông, kiên quyết giữ vững nguyên tắc về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, đồng thời bảo đảm không để xảy ra xung đột, va chạm gây căng thẳng với các nước có liên quan. Việc phối hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và đối ngoại, giữa thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận ngoại giao vì hòa bình đã thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy chiến lược sắc bén của Bộ Quốc phòng trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Một điểm đáng chú ý khác là vai trò chủ động của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong việc đề xuất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng. Trong nhiệm kỳ qua, nhiều đạo luật quan trọng đã được Quốc hội thông qua, như Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Dân quân tự vệ (sửa đổi), Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam (sửa đổi)... Những đạo luật này không chỉ tạo hành lang pháp lý cho hoạt động quốc phòng mà còn củng cố cơ sở chính trị-pháp lý cho thế trận phòng thủ đất nước trong tình hình mới.
Phát triển lý luận quân sự, xây dựng thế trận quốc phòng toàn diện
Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cũng tích cực triển khai các đề án lớn về quy hoạch thế trận phòng thủ, xây dựng khu vực phòng thủ, phát triển công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa lực lượng và trang bị kỹ thuật. Điển hình như đề án phát triển các khu kinh tế-quốc phòng, xây dựng căn cứ hậu cần-kỹ thuật tại các vùng chiến lược; đề án tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiện đại; các vấn đề liên quan đến tổ chức chính quyền địa phương hai cấp; phát triển tổ hợp công nghiệp quốc phòng dùng cho cả quân sự và dân sự... đều là các sản phẩm cụ thể của tư duy chiến lược đổi mới, có tầm nhìn xa của lãnh đạo Bộ Quốc phòng.
Một trong những đóng góp có tính lý luận quan trọng của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong giai đoạn này là việc phát triển tư duy về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới. Tư duy quốc phòng hiện đại do Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề xuất đã mở rộng ra các nội dung như an ninh mạng, chiến tranh thông tin, phản ứng nhanh với thảm họa sinh học, tích hợp quốc phòng với phát triển bền vững. Các học viện, viện nghiên cứu trong Quân đội cũng được giao nhiệm vụ tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đào tạo đội ngũ cán bộ chiến lược, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đáng chú ý, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng không chỉ đóng vai trò kiến tạo chiến lược mà còn trực tiếp chỉ đạo triển khai, kiểm tra, giám sát và điều chỉnh kịp thời các kế hoạch quốc phòng. Các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, thành phố; diễn tập liên hợp trên biển; diễn tập ứng phó thảm họa, cứu hộ, cứu nạn; hợp tác quốc phòng đa phương... đều được tổ chức bài bản, sát thực tế, tạo ra năng lực phản ứng linh hoạt và chủ động cho toàn quân, đồng thời khẳng định uy tín, năng lực tổ chức của QĐND Việt Nam trong hợp tác quốc phòng quốc tế.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn nhiệm kỳ 2020-2025 cũng đặt ra những yêu cầu mới cho công tác tham mưu chiến lược trong giai đoạn tiếp theo. Trước hết, đó là yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy chiến lược theo hướng toàn diện, đa chiều, bám sát các xu thế lớn của thời đại và những biến động khó lường trong môi trường an ninh khu vực, quốc tế. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn biến gay gắt, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ quân sự, tư duy về bảo vệ Tổ quốc cần chuyển từ trạng thái ứng phó bị động sang chủ động kiến tạo, định hình thế trận từ hòa bình.
Thứ hai, công tác tham mưu không thể tách rời xây dựng nguồn nhân lực chiến lược, trong đó đặc biệt coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ có tư duy sắc bén, bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu sâu sắc về quốc phòng, an ninh, có khả năng phân tích, tổng hợp, dự báo và xây dựng các phương án xử trí linh hoạt, hiệu quả. Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ số, khai thác dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong công tác phân tích chiến lược cũng cần được chú trọng để nâng cao chất lượng và tốc độ tham mưu trong bối cảnh tác chiến đa chiều, đa phương thức, đa lĩnh vực.
Sự phối hợp giữa các cơ quan trong và ngoài Quân đội cần được mở rộng, củng cố nhằm bảo đảm tính đồng bộ, liên thông và hiệu lực trong thực hiện nhiệm vụ. Từ đó, tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Nhìn lại cả nhiệm kỳ, có thể khẳng định, công tác tham mưu chiến lược của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã được thực hiện với tinh thần đổi mới, chủ động, linh hoạt, khoa học và hiệu quả. Tư duy chiến lược được nâng tầm rõ rệt, không chỉ bảo đảm yêu cầu hiện tại mà còn định hướng cho tương lai, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thành công đó là kết tinh của bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ lý luận-thực tiễn sắc sảo, năng lực tổ chức, triển khai mạnh mẽ và trên hết là sự trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng nói riêng, cán bộ, chiến sĩ toàn quân nói chung. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xứng đáng là cơ quan tham mưu chiến lược tin cậy của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng, là lực lượng tiên phong trong bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, vì độc lập, chủ quyền và sự phát triển bền vững của đất nước.