Phát triển tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới
Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc ngày càng phát triển hoàn thiện, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện. Đó là một quá trình nhận thức đúng đắn, phát triển sáng tạo quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; tạo thế và lực mới để Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên phát triển mới.

Tổng Bí thư Tô Lâm với các già làng, trưởng thôn, người lao động tiêu biểu ở tỉnh Gia Lai, ngày 6-1-2025 _Ảnh: TTXVN
Tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được kế thừa từ tri thức, kinh nghiệm quý báu, truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta; đồng thời, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn. Trong bối cảnh phát triển mới, Đảng ta đã tập trung vào những nội dung trọng tâm sau:1- Luôn nhất quán vai trò quan trọng củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Đồng thời, nhất quán các quan điểm cơ bản: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Nhận thức về đối tác, đối tượng ngày càng sáng rõ, linh hoạt, uyển chuyển, biện chứng hơn thể hiện qua các kỳ đại hội, trong tinh thần các nghị quyết Trung ương về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”(1). Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan trọng để Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân thực hiện tốt nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.Những năm gần đây, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ xây dựng phát triển đất nước hùng cường lên hàng đầu, yêu cầu không được xem nhẹ nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Bởi, củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ gây mất ổn định, tạo môi trường hòa bình, thuận lợi cho nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng phát triển đất nước và khi đất nước phát triển, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc.2- Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc toàn diện, cụ thể, sâu sắc hơn và phù hợp với tình hình mới. Lần đầu tiên Đảng ta đưa nội dung: “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định” vào chủ đề Đại hội XII, tiếp đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới với sự phát triển toàn diện, sâu sắc, đầy đủ hơn.Từ việc đánh giá, nhận diện rõ tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển, đảo; tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, khó lường...; vấn đề an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh hoạt động chống phá cách mạng nước ta... làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động không nhỏ tới Việt Nam. Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta yêu cầu: Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để đạt mục tiêu tối thượng, cốt lõi là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(2). Đây là tư duy mới của Đảng ta trong giải quyết các vấn đề đặt trong mối quan hệ biện chứng của mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Như vậy, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là toàn diện cả phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất.3- Chủ động kế sách ngăn ngừa nguy cơ xung đột từ sớm, từ xa. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng, kinh nghiệm từ truyền thống giữ nước của dân tộc, Đảng taxác định phương châm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”(3). Đây là quan điểm định hướng đúng đắn của Đảng, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện hiệu quả bằng phương thức tổng thể giải pháp đồng bộ trên các lĩnh vực, trong đó quốc phòng, an ninh là trọng yếu và công tác đối ngoại giữ vai trò rất quan trọng. Do vậy, Đảng ta chủ trương cần nắm và dự báo chính xác tình hình; tuyên truyền, giáo dục quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc, nâng cao nhận thức về đối tác, đối tượng; tăng cường xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, “nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình để phát triển”(4). Không chỉ nhấn mạnh phương châm kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, mà còn kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ, bảo vệ tốt để có điều kiện xây dựng tốt. Đấu tranh phi vũ trang được Đảng nhận thức có vai trò ngày càng quan trọng trong phòng, chống “diễn biến hòa bình”, nhằm đối phó hiệu quả trước phương thức, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Như vậy, Đảng ta đã phát triển tư duy lý luận về phương thức, giải pháp thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” theo hướng tăng tính chủ động và khả thi hơn.4- Xác định đối tác, đối tượng và mối quan hệ, chuyển hóa giữa đối tác, đối tượng ngày càng rõ, linh hoạt, biện chứng hơn. Với sự chủ động dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực, Đảng ta xác định rõ đối tác, đối tượng, sự đan xen, quan hệ, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng để tiếp tục hoàn thiện hơn trong giải quyết sự đan xen, quan hệ, chuyển hóa đó.Với tư duy lý luận mới, Đảng ta “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại... Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(5). Đồng thời, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với đối tác, đặc biệt là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch, phản động vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước... Chính vì vậy, đến tháng 5-2025, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước (trong đó có tất cả nước lớn), có quan hệ thương mại với trên 200 thị trường nước ngoài, là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế, khu vực. Đặc biệt, Việt Nam thiết lập quan hệ với 13 đối tác chiến lược toàn diện; trong đó, Việt Nam thiết lập quan hệ hợp tác ở mức cao với tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (hợp tác chiến lược toàn diện với 4 nước: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Pháp và hợp tác chiến lược với Anh).

Khối nữ Gìn giữ hòa bình Việt Nam tại buổi tổng hợp luyện diễu binh, diễu hành Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 _Ảnh: TTXVN
5- Phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Đó là sức mạnh tổng hợp từ các yếu tố: chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, đối ngoại; biểu hiện sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn bộ nhân dân trong nước và đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tất cả sức mạnh đó được kết tinh lại, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước, sự đồng lòng, tin tưởng, ý chí quyết tâm của toàn dân; lấy sức mạnh chính trị, tinh thần làm cốt lõi; đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu, “thế trận lòng dân” làm nền tảng.Với mục tiêu xây dựng nguồn lực và sức mạnh to lớn bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta yêu cầu “phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế”(6). Đây là sự bổ sung, phát triển tư duy lý luận trong việc xác định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc khi tình hình khu vực và quốc tế dự báo sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Qua đó, thể hiện sự kế thừa, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam – trong khó khăn, thử thách thì ý chí, khát vọng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.Để phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, Đảng ta xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại..., phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”; “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở”(7). Đây không chỉ là sự lựa chọn đúng đắn, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, mà Đảng ta đã cụ thể hóa, từng bước hoàn thành lộ trình xây dựng lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, quan điểm sức mạnh tổng hợp và lực lượng toàn diện bảo vệ Tổ quốc phản ánh sâu sắc tính chất toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới được Đảng tiếp tục khẳng định với nội hàm sâu, rộng thêm.Trong bối cảnh tình hình khu vực và Biển Đông diễn biến phức tạp, khó lường, việc cụ thể hóa trong xây dựng lực lượng dự bị động viên và lực lượng dân quân tự vệ trên biển là sự sáng tạo, đột phá trong tư duy lý luận của Đảng đáp ứng đòi hỏi khách quan về tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Vì vậy, Đảng ta yêu cầu “có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ”(8) và “tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, nâng cao chất lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”(9). Nội dung này thể hiện sự phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng về cơ chế huy động nguồn lực, kiên quyết sắp xếp tổ chức quân sự địa phương tinh, gọn, mạnh để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.6- Quốc phòng và an ninh quan hệ chặt chẽ, thống nhất trong mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội XII, Đảng ta xác định: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”(10), đến Đại hội XIII, Đảng ta phát triển thêm: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(11). Như vậy, Đảng ta chủ trương tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh đều hướng vào mục tiêu chung là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thể hiện qua sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng tiềm lực, lực lượng và thế trận của nền quốc phòng toàn dân với xây dựng tiềm lực, lực lượng và thế trận của nền an ninh nhân dân.Mối quan hệ biện chứng đó, được đặt trong tổng thể thống nhất, gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ đó phản ánh yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản của hai lĩnh vực hoạt động đặc thù nhằm mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và xây dựng tiềm lực, lực lượng và thế trận của nền quốc phòng toàn dân và của nền an ninh nhân dân phải bảo đảm toàn diện, đồng bộ, quan hệ chặt chẽ, hiệu quả cao trên phạm vi toàn quốc, cũng như trong từng địa bàn, từng lĩnh vực cụ thể.7- Quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn. Trong bối cảnh phát triển mới, mối quan hệ này có tầm quan trọng đặc biệt, là quan hệ cơ bản, chi phối, thẩm thấu vào các mối quan hệ khác; được giải quyết trong sự gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, xây dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị phải đạt đến mục đích là giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong phát triển văn hóa phải chú ý gia tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh, phục vụ cho xây dựng và phát huy tiềm lực quốc phòng, an ninh; phải “kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”(12). Việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được thể hiện cụ thể ở sự kết hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực; chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.8- “Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới. Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”(13). Đây là bước phát triển mới, là giải pháp rất quan trọng và khoa học của Đảng trong tư duy lý luận về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy nhạy bén, đột phá về nhận thức và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Bởi vì, đường lối quân sự là một bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và phụ thuộc vào đường lối chính trị của Đảng, là cơ sở lý luận để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Trước bối cảnh phát triển mới, tư duy lý luận của Đảng không ngừng thể hiện rõ luận điểm: “Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác”(14).Như vậy, tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới rất phong phú, sâu sắc, thường xuyên được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị và thực tiễn lãnh đạo của Đảng. Tư duy lý luận mới đã được toàn Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ, với quyết tâm chính trị rất cao, giành nhiều thắng lợi trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để Đảng ta tiếp tục dẫn dắt cách mạng Việt Nam vững vàng tiến vào kỷ nguyên phát triển mới.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 156
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 156
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 149
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 156 - 157
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 161 - 162, 155 - 156
(7), (8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 157 - 158, 159, 160
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.148
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 157
(12), (13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 157, 159, 160
PGS, TS Trần Việt Khoa - Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Giám đốc Học viện Quốc phòng