Phó thủ tướng: Cần duy trì bảng giá đất 5 năm một lần, kèm hệ số K
Theo chỉ đạo của Phó thủ tướng Trần Hồng Hà, hệ số K phải có phương pháp xác định rõ ràng và quy định ngưỡng biến động để điều chỉnh. Tuy nhiên, đây sẽ không phải là giải pháp mang tính chất dài hạn để xác định giá đất.
Mới đây, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024.
Đáng chú ý, liên quan tới việc xác định giá đất, Phó thủ tướng đồng tình với quan điểm cần duy trì bảng giá đất 5 năm một lần, kèm hệ số điều chỉnh theo biến động thị trường. Hệ số này phải có phương pháp xác định rõ ràng, căn cứ pháp lý cụ thể và quy định ngưỡng biến động để điều chỉnh. Về lâu dài, cần tiến tới một giá đất thống nhất trên cơ sở dữ liệu đất đai, nhưng trước mắt vẫn phải áp dụng bảng giá và hệ số.

Phó thủ tướng đồng tình với quan điểm cần duy trì bảng giá đất 5 năm một lần, kèm hệ số K. Ảnh: VGP
Nhiều đại biểu cũng thống nhất việc giữ chu kỳ 5 năm đối với bảng giá đất, đồng thời bổ sung cơ chế điều chỉnh hằng năm bằng hệ số hoặc xây dựng lại bảng giá mới nếu thị trường biến động lớn. Mục tiêu của chính sách là phản ánh sát thực tế và giảm chồng chéo, tiết kiệm nguồn lực.
Các đề xuất về việc xác định giá đất chỉ là một trong số các thay đổi có trong dự thảo. Theo Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, dự thảo Luật sẽ tập trung vào 3 nhóm nội dung chính.
Nhóm 1 là các nội dung đã được nêu trong Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương về sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 18. Nhóm 2 là các nội dung sửa đổi, bổ sung nhằm tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh. Nhóm 3 là các nội dung sửa đổi liên quan đến phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền để thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp.
Sau khi tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thực hiện chỉnh lý các nội dung lớn: Kế hoạch sử dụng đất cấp xã; giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá, đấu thầu, quyền thế chấp tài sản trên đất trong thời gian thực hiện trả tiền thuê đất hàng năm; thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất…
Thứ trưởng Bộ Tài chính Bùi Văn Khắng nêu rõ, Bộ đang xây dựng dự thảo văn bản tháo gỡ vướng mắc về nghĩa vụ tài chính khi hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích từ đất nông nghiệp sang đất ở. Theo đó, sẽ có quy định cụ thể cho từng trường hợp trong và ngoài hạn mức, số lần được hưởng ưu đãi.
Bộ Tài chính cũng đề xuất bổ sung quy định rõ ràng về miễn, giảm tiền sử dụng đất và tiền thuê đất cho doanh nghiệp, hoặc giao Chính phủ quyết định hằng năm và báo cáo Quốc hội.
Kết luận cuộc họp, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) theo hướng chặt chẽ, minh bạch, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý và thực tiễn thi hành.
Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã, Phó thủ tướng đồng ý với đề xuất của Bộ Nông nghiệp và Môi trường là không lập quy hoạch sử dụng đất cấp xã, còn kế hoạch sử dụng đất cấp xã cần gắn chặt với quy hoạch đô thị, nông thôn, bảo đảm hiệu quả không gian.
Phó thủ tướng nêu rõ, các dự án quốc phòng, an ninh, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế thuộc thẩm quyền Thủ tướng và Nhà nước sẽ thu hồi, riêng những dự án hạ tầng xã hội như nhà ở xã hội, giáo dục, y tế,… cần có quy định cụ thể. Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần nghiên cứu quy định giao Thủ tướng phê duyệt quyết định thu hồi đất với những trường hợp đặc biệt.
Phó thủ tướng yêu cầu phân định rõ ràng giữa thu hồi đất để thực hiện dự án thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất theo pháp luật dân sự và cơ chế Nhà nước thu hồi đất theo chính sách riêng.
Đối với các dự án thuộc diện Nhà nước thu hồi nhưng nhà đầu tư đã thỏa thuận được với phần lớn hộ dân (70 – 80%), có thể cân nhắc cho phép tiếp tục theo cơ chế thỏa thuận giữa nhà đầu tư và người dân, thay vì bắt buộc Nhà nước phải đứng ra thu hồi, với điều kiện không trái với Nghị quyết số 18.
Cuối cùng, Phó thủ tướng nêu cần có quy định đối với trường hợp bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… hoặc do Nhà nước điều chỉnh quy hoạch khiến người sử dụng đất chậm nộp tiền sử dụng đất, không để phát sinh khoản thu bất hợp lý đối với doanh nghiệp, người dân…