Phong trào thể thao người khuyết tật ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ
Sáng 22/9, tại Hà Nội, Ủy ban Paralympic Việt Nam tổ chức kỷ niệm 30 năm kể từ khi Thủ tướng ban hành Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 11/9/1995 cho phép thành lập Hiệp hội Thể thao Người khuyết tật Việt Nam. Phó Thủ tướng Mai Văn Chính dự và phát biểu ý kiến.

Trao Bằng khen tặng các cán bộ nhiều năm đóng góp phát triển phong trào thể thao người khuyết tật.
Ba thập kỷ qua, phong trào thể thao người khuyết tật ở Việt Nam đã chuyển mạnh mẽ, từ những bước khởi đầu manh nha sang một hệ thống có tầm hoạt động quốc gia và dần khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Song con đường phía trước vẫn còn nhiều thách thức.
Đến nay, Việt Nam có hơn 7 triệu người khuyết tật, trong số đó, gần 29% là người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng; khoảng 10% sống trong các hộ nghèo hoặc cận nghèo. Với bối cảnh đó, hoạt động thể dục thể thao được nhìn nhận không chỉ là sân chơi thi đấu mà còn là môi trường giúp người khuyết tật nâng cao sức khỏe, tự tin và hội nhập xã hội.
Phát biểu tại lễ kỷ niệm, Phó Thủ tướng Mai Văn Chính khẳng định, không chỉ dừng lại ở các con số về huy chương hay kỷ lục, giá trị lớn lao nhất mà thể thao người khuyết tật đem lại chính là sức mạnh truyền cảm hứng. Những câu chuyện vượt khó, những hành trình khẳng định bản thân của các vận động viên đã góp phần thay đổi góc nhìn của xã hội về người khuyết tật: từ chỗ thương cảm sang trân trọng, từ hoài nghi sang ngưỡng mộ.
Thể thao người khuyết tật đã chứng minh rằng: Khuyết tật không phải là rào cản, mà có thể trở thành điểm khởi đầu của những hành trình phi thường. Đó là những bài học nhân văn, lay động trái tim, khích lệ hàng triệu con người, cả người khuyết tật và người bình thường, cùng nuôi dưỡng niềm tin, nghị lực và khát vọng sống. Đó là bản hùng ca của ý chí và nghị lực, là nguồn cảm hứng bất tận không chỉ cho cộng đồng người khuyết tật, mà cho toàn xã hội.
Đằng sau thành công ấy là công lao thầm lặng của các huấn luyện viên, cán bộ, tình nguyện viên; là sự chung tay, đồng hành đầy trách nhiệm của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và bạn bè quốc tế. Tất cả đã tạo nên một phong trào giàu tính nhân văn, góp phần nâng cao vị thế đất nước và quảng bá hình ảnh một Việt Nam nhân ái, nghị lực, giàu khát vọng vươn lên...

Phó Thủ tướng Mai Văn Chính phát biểu tại buổi lễ.
Quá trình phát triển của Ủy ban được trình bày theo 3 giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn 1995-2007 là khởi động và hội nhập: phong trào lan tỏa từ các thành phố lớn tới nhiều địa phương, thu hút hàng chục nghìn người tham gia; năm 1997 bắt đầu tổ chức các hội thi văn nghệ-thể thao toàn quốc; từ đầu những năm 2000, Việt Nam tham gia Asean Para Games và đạt những vị trí đáng chú ý. Giai đoạn 2008-2015 ghi nhận chiều sâu hội nhập quốc tế với việc duy trì mạng lưới phong trào ở nhiều tỉnh, tham dự Asian Para Games và tăng cường sự có mặt tại Paralympic. Từ năm 2016 đến nay, mô hình tổ chức, số lượng câu lạc bộ và sự đa dạng môn thi đấu mở rộng mạnh mẽ, đưa thể thao người khuyết tật vào quỹ đạo chuyên nghiệp hơn.
Trên đấu trường quốc tế, thành tích của thể thao người khuyết tật Việt Nam có bước nhảy đáng kể. Tại Paralympic, các vận động viên nước nhà đã giành huy chương qua các kỳ, tiêu biểu là tấm huy chương vàng môn cử tạ của Lê Văn Công tại Rio 2016; các kỳ Asian Para Games và Asian Para Games cũng chứng kiến những kết quả ấn tượng, trong đó Asian Para Games 2023 đem về 66 huy chương Vàng, 59 huy chương Bạc và 78 huy chương Đồng. Tại châu lục, thành tích tại Giải vô địch châu Á và Asian Para Games nhiều lần khẳng định năng lực cạnh tranh của một số nội dung như: cử tạ, bơi và điền kinh.
Song, bên cạnh những thành tựu, báo cáo điều hành cũng chỉ rõ những tồn tại. Nhận thức về thể thao người khuyết tật tại một số địa phương còn hạn chế; cơ sở vật chất tập luyện chưa đồng bộ và thiếu tính chuyên nghiệp; lực lượng vận động viên trẻ chưa đủ mạnh để thay thế lớp vận động viên có tuổi trung bình cao. Ngoài ra, đội ngũ huấn luyện viên chất lượng cao, cán bộ phân loại thương tật và nguồn lực y tế chuyên môn vẫn thiếu, trong khi vấn đề chấn thương và chăm sóc hậu chấn thương chưa được xử lý triệt để tại nhiều nơi.
Trước thực tế đó, Ủy ban đã đề ra định hướng chiến lược đến năm 2030 với những mục tiêu cụ thể: Phát triển ít nhất 16 môn thể thao cho người khuyết tật; thu hút 40.000 người tham gia tập luyện hàng năm; mở rộng câu lạc bộ hướng tới mục tiêu một triệu người khuyết tật tham gia hoạt động thể thao; duy trì 55-60 vận động viên trọng điểm và bổ sung 10-15 vận động viên trẻ mỗi năm. Về thành tích, mục tiêu dài hạn gồm có việc có vận động viên đạt chuẩn và giành huy chương tại Paralympic 2028.
Định hướng phát triển trong thời gian tới, Phó Thủ tướng Mai Văn Chính nêu một số định hướng, nhiệm vụ trọng tâm:
Thứ nhất, tăng cường sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành trong việc triển khai hiệu quả các chủ trương, nghị quyết, chiến lược phát triển thể dục thể thao, đặc biệt gắn với công tác người khuyết tật.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách để bảo đảm sự bình đẳng, công bằng và kịp thời trong đãi ngộ, khen thưởng; đồng thời khuyến khích vận động viên, huấn luyện viên người khuyết tật cống hiến hết mình, yên tâm rèn luyện và thi đấu.
Thứ ba, đầu tư nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị tập luyện, thi đấu và con người; xây dựng trung tâm huấn luyện chuyên biệt, hỗ trợ dinh dưỡng, y sinh học thể thao và nghề nghiệp cho vận động viên sau khi giải nghệ.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, tôn vinh những câu chuyện truyền cảm hứng, những tấm gương vượt khó, qua đó khích lệ tinh thần hàng triệu người khuyết tật tham gia thể thao, lan tỏa thông điệp về khát vọng sống, khát vọng vươn lên và hòa nhập cộng đồng.
Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hóa, tích cực huy động các nguồn lực xã hội, khuyến khích sự đồng hành của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Xây dựng các mô hình hợp tác công-tư, quỹ hỗ trợ thể thao khuyết tật, phát triển mạnh mẽ phong trào từ cơ sở đến cấp quốc gia.
Thứ sáu, mở rộng hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia, đồng thời phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam trong phong trào Paralympic khu vực và thế giới.
Nhìn lại, sự chuyển đổi từ Hiệp hội thành Ủy ban Paralympic Việt Nam (chính thức đổi tên tại Đại hội nhiệm kỳ VI năm 2024) là một bước mang tính biểu tượng, đánh dấu sự hòa nhập sâu hơn với phong trào Paralympic khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, chuyển hóa những mục tiêu chiến lược thành kết quả cụ thể đòi hỏi nguồn lực bền vững, từ ngân sách địa phương cho đến khả năng huy động xã hội hóa và nâng cao năng lực cán bộ chuyên môn.
Kỷ niệm 30 năm là dịp để nhìn nhận cả thành công và hạn chế. Thành tích trên sàn đấu quốc tế cho thấy tiềm năng và nỗ lực của các vận động viên, huấn luyện viên, cùng sự hỗ trợ của địa phương. Thử thách phía trước là làm sao biến phong trào thành nền tảng bền vững, tạo hệ sinh thái đủ tốt để nâng cao chất lượng vận động viên trẻ, chuyên môn hóa công tác huấn luyện, và mở rộng cơ hội cho hàng triệu người khuyết tật được tiếp cận thể thao như một con đường phục hồi, hội nhập và tỏa sáng trên nhiều sân chơi quốc tế.