'Quân đội ra đời trước nhà nước' - tư duy sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cách đây 80 năm đã đập tan ách thống trị gần một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, phát xít tàn bạo, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc-kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động làm chủ đất nước. Trong thắng lợi đó, LLVT cách mạng đã có đóng góp vô cùng quan trọng.

Một đặc điểm nổi bật và mang tính đặc thù là Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập trước khi nhà nước cách mạng ra đời, một hiện tượng hiếm có trong lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới. Đây không chỉ là sự khác biệt về trình tự phát triển tổ chức, mà sâu xa hơn, thể hiện rõ tư duy cách mạng biện chứng, chủ động, sáng tạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chính sự chủ động, linh hoạt trong việc xác lập LLVT từ sớm đã tạo điều kiện để lực lượng cách mạng có được một công cụ sắc bén, là chỗ dựa tin cậy để tổ chức và giành chính quyền trong cả nước.

Yêu cầu cấp thiết phải tổ chức LLVT cách mạng

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chính trị là phải “tổ chức đội tự vệ của công nông”. Theo chủ trương đó, trong phong trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh, nhiều đội tự vệ công nông (Tự vệ đỏ) lần lượt ra đời ở cả 3 miền Bắc-Trung-Nam. Đại hội lần thứ nhất của Đảng (tháng 3-1935) đã ra nghị quyết về Đội tự vệ, xác định những nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Đội tự vệ, cơ sở đầu tiên để xây dựng LLVT cách mạng của Đảng.

Quân giải phóng và Tự vệ Thành duyệt binh tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, tháng 8-1945. Ảnh tư liệu

Quân giải phóng và Tự vệ Thành duyệt binh tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, tháng 8-1945. Ảnh tư liệu

Những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ 20, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều chuyển biến sâu sắc, đặc biệt là sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi phát xít Nhật tiến vào Đông Dương (năm 1940), Pháp phải đầu hàng, cấu trúc quyền lực thực dân bị lung lay nghiêm trọng. Nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh “một cổ hai tròng”-vừa bị thực dân Pháp thống trị, vừa bị phát xít Nhật đàn áp. Trước tình thế đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời tổ chức Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, xác định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Để giành được độc lập, cần phải chuẩn bị lực lượng toàn diện, trong đó việc xây dựng LLVT là yêu cầu cấp thiết: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt được đề ra là: “Tích cực chuẩn bị LLVT để khi thời cơ đến thì phát động khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân”.

Trong thời gian ngắn sau Hội nghị Trung ương 8, các đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ, đội du kích Cao-Bắc-Lạng đã hình thành, trở thành tiền đề cho sự ra đời của đội quân chủ lực. Như vậy, trong bối cảnh vận hội và thách thức đan xen, Đảng đã sáng suốt lựa chọn con đường bạo lực cách mạng, chuẩn bị LLVT để làm nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc.

Tổ chức LLVT trước khi có nhà nước: Tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo

Ngày 22-12-1944, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính thức được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng). Chỉ với 34 chiến sĩ, trang bị thô sơ, nhưng đội quân nhỏ bé ấy lại mang sứ mệnh lịch sử to lớn; là tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền. Ngay từ khi ra đời, đội đã xác định rõ phương châm hành động “chính trị trọng hơn quân sự”, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, tổ chức quần chúng với tác chiến vũ trang. Sau vài ngày thành lập, đội đã đánh thắng hai trận ở Phai Khắt và Nà Ngần, gây tiếng vang lớn trong nhân dân và củng cố niềm tin vào lực lượng cách mạng. Tới tháng 5-1945, các LLVT cách mạng được hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Trong lúc nhà nước cách mạng chưa hình thành, lực lượng này đã đảm nhiệm nhiều vai trò: Chiến đấu, bảo vệ căn cứ địa, tổ chức tuyên truyền và thậm chí là đại diện cho chính quyền cách mạng sơ khai.

Trong các cuộc cách mạng lớn trên thế giới như Nga (năm 1917) hay Trung Quốc (năm 1949), nhà nước cách mạng thường ra đời trước, rồi mới xây dựng quân đội cách mạng. Việt Nam lại đi theo hướng ngược lại và đây là một sáng tạo đặc biệt, phản ánh sự chủ động, linh hoạt của Đảng trong chỉ đạo đấu tranh giành chính quyền. Việc Quân đội ra đời trước nhà nước không chỉ là hiện tượng hiếm gặp mà còn thể hiện tính tất yếu lịch sử, khi chính quyền cũ chưa sụp đổ, nhưng lực lượng cách mạng đã đủ mạnh để thay thế bằng một trật tự mới, điều đó đòi hỏi phải có công cụ bạo lực vững mạnh để làm nòng cốt.

Tư duy chiến lược đặc sắc của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc tổ chức và xây dựng LLVT trước khi có chính quyền được thể hiện: Thứ nhất, đó là tầm nhìn xa về vai trò của bạo lực và cách mạng vũ trang. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Quân đội được thành lập trước để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang, thể hiện sự chủ động chứ không thụ động chờ thời. Thứ hai, đó là sự kết hợp khéo léo giữa quân sự và chính trị, giữa bạo lực và tổ chức. LLVT Việt Nam vừa chiến đấu, vừa làm công tác dân vận, tổ chức quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng. Tư tưởng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” là sáng tạo của Việt Nam. Thứ ba, LLVT được xây dựng trên nền tảng lòng dân, từ nhân dân mà ra, chiến đấu vì lợi ích của nhân dân. Đó là yếu tố then chốt tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam.

Vai trò quyết định của LLVT trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945) và đầu hàng đồng minh (ngày 15-8-1945), thời cơ cách mạng đến, LLVT đã nhanh chóng phát huy vai trò trung tâm trong việc phát động và chỉ đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Từ chiến khu Việt Bắc, các đơn vị Giải phóng quân tiến công đồng loạt các tỉnh trung du và đồng bằng. Tại Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Ninh... LLVT đóng vai trò nòng cốt trong việc tổ chức lực lượng, tước vũ khí địch và thiết lập chính quyền cách mạng.

Tại Hà Nội, ngày 19-8-1945, hơn trăm nghìn người xuống đường biểu dương lực lượng và nhanh chóng chuyển thành cuộc tổng khởi nghĩa. Được sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, nhân dân Hà Nội lần lượt chiếm các cơ quan đầu não của địch, như: Phủ Khâm sai, trại Bảo an. Cuộc đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Hà Nội thắng lợi, thúc đẩy các địa phương trên cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa. Với LLVT làm chỗ dựa, đấu tranh vũ trang làm nòng cốt, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh, thành phố trên cả nước đã nhanh chóng giành thắng lợi. Những nơi còn lực lượng phản kháng, LLVT đã trấn áp và vô hiệu hóa nhanh chóng. LLVT không chỉ chiến đấu mà còn làm nhiệm vụ chính trị, tổ chức, vận động quần chúng, xây dựng lòng tin. Họ là “gương mặt” cụ thể của chính quyền mới, là biểu tượng cho sức mạnh cách mạng. Nhờ đó, chính quyền được thành lập nhanh chóng, trật tự được duy trì và các lực lượng phản cách mạng bị vô hiệu hóa.

Đặc điểm “Quân đội ra đời trước nhà nước” là minh chứng rõ rệt cho tầm nhìn chiến lược, sự chủ động và tư duy sáng tạo đặc sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu Đảng ta trước đó không xây dựng LLVT và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi.

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/quan-doi-ra-doi-truoc-nha-nuoc-tu-duy-sang-tao-cua-dang-va-chu-tich-ho-chi-minh-844484