'Rẽ nước' - thực tế và huyền thoại!
Trong văn hóa thế giới nói chung, môtip 'rẽ nước đi xuống biển/sông' như đi trên cạn không phổ biến, chỉ dành cho những nhân vật huyền thoại thật đặc biệt. Ví như kết truyện 'An Dương Vương', sau khi chém Mỵ Châu, An Dương Vương 'cầm sừng tê bảy tấc rẽ một đường đi xuống biển'. Phải chăng đó là một công lý dân gian: người có công với nước thì không thể chết.
Vả lại, nếu An Dương Vương chết, chất bi kịch của câu chuyện lại quá đậm, trong khi đó, âm hưởng chủ đạo của truyền thuyết vẫn là "anh hùng ca" (!?). Trong truyện "Thạch Sanh", sau khi cứu Thái tử con vua Thủy Tề, "nước rẽ ra" mời Thạch Sanh theo Thái tử xuống Thủy cung…

Một cảnh quay nước biển "tách ra" trong phim "Exodus: Gods and Kings".
Truyền thuyết đạo Công giáo kể, Moses - một lãnh tụ, nhà tiên tri, là người được Thiên Chúa trao vai trò dẫn dắt dân tộc Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của các Pharaon Ai Cập. Con đường đi phải băng qua Biển Đỏ, tiến vào hoang mạc, để đưa mọi người trở về miền Đất Hứa.
Mượn quyền năng Thiên Chúa, Moses dang tay "rẽ nước", biển tách ra làm đôi, cho đoàn người đi qua, như đi trên cạn để tiến tới bờ bên kia. Khi gần bờ, quân Ai Cập cũng đang ào ạt gần tới phía sau. Thậm nguy cấp. Nếu đuổi kịp, bọn dã man sẽ tàn sát không thương tiếc một sinh mạng nào. Đúng lúc ấy, Moses bèn dang tay, mặt biển khép lại nhấn chìm toàn bộ đạo quân truy đuổi. Cả đoàn người thoát nạn chết.
Huyền thoại đầy chất điện ảnh này tất yếu được nhiều đạo diễn nổi tiếng khai thác để xây dựng các bộ phim sử thi kinh điển hấp dẫn cả thế giới. Như phim "Mười điều răn" (The ten commandments - 1956) của Cecil B. DeMille; phim "Exodus: Cuộc chiến chống Pha-ra-ông" (Exodus: Gods and Kings - 2014) của Ridley Scott.
Theo khoa học thủy triều, cái "tích" này dựa vào một đặc điểm có trong thực tế là có nhiều vùng đất trên thế giới, khi thủy triều xuống thấp nhất sẽ để lộ ra một dải đất dưới đáy biển cạn, tạo thành một con đường chỉ tồn tại trong vài giờ. Khi thủy triều lên, con đường sẽ biến mất.
Lợi dụng điều này, năm 1798, Napoleon Bonaparte và đoàn quân của ông đã cưỡi ngựa băng qua vịnh Suez (phía bắc Biển Đỏ). Căn cứ vào huyền thoại, nhiều nghiên cứu cho rằng, rất có thể, đây cũng là nơi được Moses đưa đoàn người vượt qua.
Theo số liệu thủy văn, nơi đây, khi thủy triều xuống thấp nhất sẽ hiện ra một dải đất cạn dài khoảng 1,6km. "Con đường" sẽ biến mất khi triều lên. Vì thế, nhiều binh lính của Napoleon bị chết đuối, bởi không kịp vượt qua "đường" lúc triều rút.
Căn cứ vào "tiểu sử" nhân vật, có nghiên cứu khẳng định, nhờ có kiến thức thiên văn, nắm được quy luật thủy triều, Moses lại từng sống ở vùng đất gần đó nên đã chọn đúng thời điểm, địa điểm để đoàn lữ hành băng qua. Ngược lại, người Ai Cập sống dọc sông Nile, nối liền với Địa Trung Hải, nơi thủy triều chênh lệch rất thấp, chỉ khoảng vài cm. Do vậy họ hiểu biết rất ít về thủy triều, nên không hề biết được sự nguy hiểm phải đối mặt. Như vậy, huyền thoại không quá xa so với thực tế.
Trong văn hóa Nhật Bản có huyền thoại Kappa - nửa người nửa thú vừa sống trên cạn, vừa sống dưới nước. Tính chất "lưỡng cư" quy định hình dáng của Kappa: thân hình như đứa trẻ, da xanh, giữa các ngón tay và ngón chân có màng nối, miệng như mỏ chim, lưng hình mai rùa, luôn đội trên đầu chiếc đĩa đựng nước - chứa sức mạnh ma thuật. Nếu nước trong đĩa bị đổ, Kappa sẽ mất "phép".
Kappa cũng "lưỡng tính", thích "ăn thịt trẻ em" nhưng cũng lễ phép, giữ lời hứa, có thể dạy con người cách chữa trị vết thương hoặc trồng trọt cây cối. Theo các nghiên cứu xã hội học, Kappa là hình tượng yêu quái để các bậc phụ huynh dạy/dọa con không được chơi gần vùng nước nguy hiểm. Nếu không Kappa sẽ "rẽ nước" ngoi lên, lôi xuống… Điều này tương tự như hình tượng "thuồng luồng" mà các cha mẹ Việt Nam cũng thường đem ra để dọa con cái.
Ở ta, nhân vật huyền thoại sớm nhất có cuộc sống vừa dưới nước vừa trên cạn là Lạc Long Quân. Lời của Lạc Long Quân nói với Âu Cơ cho thấy điều này (trong một dị bản): "Ta vốn là con cháu thủy thần, nàng thuộc loài tiên, nước lửa khắc nhau, không thể kết hợp lâu dài được. Vậy xin chia tay để giữ lấy dòng giống. Nàng nên đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển, cùng nhau khai cơ mở nghiệp, tạo thế cho con cái và dân chúng dài lâu".
Sau này, môtip "rẽ nước" đi xuống biển, ngoài An Dương Vương, còn có Tản Viên Sơn Thánh. Huyền thoại kể, một lần thân mẫu ngài tắm ở sông Đà, bỗng có một con rồng vàng bất ngờ sà xuống quấn quanh thân, từ đó bà mang thai rồi đẻ ra cậu bé khôi ngô, đĩnh ngộ, đặc biệt có tài sông nước. Lớn lên, một lần thấy dân làng than khóc vì con trai vua Thủy Tề bị thuồng luồng bắt đi. Ông bèn "rẽ nước" xuống đánh chết quái vật, giải cứu hoàng tử. Đền đáp công lớn, vua Thủy Tề ban tặng ông cuốn sách ước thần kỳ, có khả năng biến hóa giúp làm được những điều phi thường.

Hình ảnh minh họa: Yết Kiêu đục thuyền quân Nguyên xâm lược.
Vua Đinh Tiên Hoàng (968-979) là vị Hoàng đế có công thống nhất giang sơn, lập nên nước Đại Cồ Việt, dựng kinh đô ở Hoa Lư. Tên húy là Đinh Bộ Lĩnh sinh ra tại làng Đại Hữu, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (xưa). Có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, tinh anh, lanh lợi khác thường, thời niên thiếu, Bộ Lĩnh có tài bơi lội xuất chúng, thường "đi" xuống lòng sông sâu bắt cá. Cùng các mục đồng chăn thả trâu quanh vùng, bày ra các "trò chơi". Nổi tiếng có trò "Tập trận cờ lau", chia quân làm hai phe, lấy bông lau làm cờ, tập trận đánh nhau "y như thật". Truyền thuyết về Đinh Bộ Lĩnh xây dựng vương nghiệp gắn liền với chuyện "trấn yểm".
Truyện kể, có thầy địa lý Tàu sang tìm đất phát vương ở Hoa Lư. Một tối, xem thiên văn ông ta thấy có dải hào quang đỏ rực từ đầm nước vọt lên rồi rơi vào sao Thiên Mã. Cho rằng đất này phát vương, ông ta bèn thuê người lặn xuống thăm dò. Đinh Bộ Lĩnh nhận lời, "rẽ nước" đi xuống đầm. Đi mãi, thì gặp một con vật hình con ngựa oai vệ đứng dưới đáy đầm. Đi lên, cậu ta nói thật những điều đã thấy. Thầy địa lý thưởng hậu rồi ra đi.
Được biết một ít về "trấn yểm", mấy ngày sau cậu ta lén đem hài cốt cha mình "đi" xuống đặt vào giữa mồm ngựa. Khi thầy địa lý quay lại, Bộ Lĩnh đã thành thủ lĩnh nổi tiếng. Với bản tính nham hiểm, ông ta trả thù bằng cách nói với Bộ Lĩnh, huyệt đẹp nhưng là ngựa chiến phải có gươm mới tốt. Nếu treo thanh gươm vào cổ ngựa thì hoàn hảo hơn. Bộ Lĩnh mắc lừa nên chỉ làm vua (Đinh Tiên Hoàng) được 12 năm, rồi bị ám sát bằng gươm...
Truyền thuyết về Yết Kiêu kể, vốn con nhà làm nghề đánh cá. Nhà nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ đã phải lăn lộn trên sông nước kiếm ăn, nuôi mẹ. Một hôm, thấy hai con trâu húc nhau chí mạng, bèn dùng đòn ống vụt vài cái can ngăn. Hai con bỏ chạy xuống sông. Thấy đầu gậy dính vài lông trâu lạ, bèn nuốt đi. Từ đó sống dưới nước như sống trên cạn, muốn xuống sông, nước "rẽ" đường mời đi. Sau này giúp quân nhà Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên.
Bên cạnh Yết Kiêu, một danh tướng nổi tiếng khác có tài bơi lội, "sống dưới nước như trên cạn" là Đỗ Hành sinh ra ở hương Cổ Hoằng, lộ Thanh Hoa (nay là Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Nghe lệnh vua Trần truyền trong cả nước tích trữ lương thảo, chuẩn bị vũ khí để chống giặc Nguyên Mông, Đỗ Hành chiêu tập tráng đinh miền sông nước, rèn đúc gươm giáo, tập luyện võ nghệ. Năm Đinh Tị (1257) giặc kéo đến, Đỗ Hành đem quân ra Thăng Long hội vào quân nhà vua cùng chiến đấu chống giặc. Tham gia nhiều trận đánh, trong đó có trận Bạch Đằng (tháng giêng Mậu Tý -1288), ông lập đại công.
Kể rằng, trong lúc chỉ huy đội thuyền chiến, nhìn thấy hai tên tướng giặc cao lớn, mặc áo giáp, đội mũ trụ, nhảy khỏi thuyền, Đỗ Hành lập tức nhảy xuống sông, nước "rẽ" để ông đi. Ông bắt sống hai tướng giặc là Ô Mã Nhi - tướng chỉ huy và Tích Lệ Cơ Ngọc - một quý tộc cao cấp (thân vương) của nhà Nguyên. Dân gian có câu ca ngợi rằng: "Hai tay tóm chặt hai tên/ Vừa bơi vừa dắt, lôi lên chiến thuyền". "Bơi" tức ở dưới nước. "Dắt" thì nghiêng về hành vi "trên cạn". Chính sử thì chép: "Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Bắt được hơn 400 chiếc thuyền đi tuần. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc dâng lên Thượng hoàng" (Đại Việt sử ký toàn thư).
Sinh sống, lao động, đấu tranh gắn liền với sông nước, biển cả, trong huyền thoại Việt có nhiều nhân vật "thủy thần", cũng không có gì lạ. Đến thời hiện đại, một nhà sử học nổi tiếng nói có lý rằng, nếu dùng một chữ khái quát cao nhất về lịch sử, tính cách Việt, thì chữ đó là chữ "Nước"!
Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/re-nuoc-thuc-te-va-huyen-thoai--i792219/











