Richard Sakakida - điệp viên bí ẩn ở Philippines

Ông Richard Motoso Sakakida (19/11/1920 – 23/1/1996) là một điệp viên tình báo của quân đội Mỹ đóng quân ở Philippines vào lúc bùng nổ Thế chiến II. Sau khi quốc đảo Philippines rơi vào tay của quân phiệt Nhật Bản thì Sakakida bị bắt sống và tra khảo suốt nhiều tháng nhưng bằng sự nhanh trí của mình, ông đã thuyết phục người Nhật rằng mình chỉ là thường dân và được phóng thích.

Sau đó Sakakida được Tập đoàn quân số 14 của quân đội Nhật Bản (còn có tên gọi khác là Phương diện quân 14, là một tập đoàn quân dã chiến trực thuộc Lục quân đế quốc Nhật Bản (IJA) tuyển dụng trong Thế chiến II. Ông đã nắm bắt cơ hội này để thu thập và chuyển giao những thông tin giá trị của lính Nhật cho lực lượng cách mạng Philippines. Sakakida còn lập mưu và tham gia vào cuộc vượt ngục cùng với 500 tù nhân Philippines.

Điệp viên người Mỹ gốc Nhật, Richard Sakakida, ở Manila (Philippines) năm 1946.

Điệp viên người Mỹ gốc Nhật, Richard Sakakida, ở Manila (Philippines) năm 1946.

Những hoạt động tình báo trong Thế chiến II

Richard Motoso Sakakida sinh ra và lớn lên ở Hawaii. Ông là một Nisei (thuật ngữ tiếng Nhật chỉ thế hệ thứ hai của người Nhật sinh ra ở một quốc gia khác ngoài Nhật Bản, cụ thể là con cái của những người nhập cư Nhật Bản (gọi là Issei).

Thuật ngữ này mô tả những người Nhật sinh ra và lớn lên tại Mỹ, và họ đóng vai trò quan trọng trong Thế chiến II, bao gồm cả việc phục vụ trong quân đội Mỹ với tư cách là những nhà dịch thuật tài giỏi, và họ cũng là mục tiêu của sự giam cầm trong các trại tập trung sau vụ tấn công Trân Châu Cảng), là con út trong số 4 người con trong một gia đình có cha mẹ là người Nhật nhập cư. Sakakida được giáo viên ROTC (viết tắt của Reserve Officers' Training Corps, một chương trình đào tạo lãnh đạo dành cho sinh viên đại học tại Hoa Kỳ, chuẩn bị cho họ trở thành sĩ quan trong Lục quân, Thủy quân, Hải quân, Không quân, và Lực lượng Không gian Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp.

Chương trình này cung cấp các lợi ích như học bổng, hỗ trợ học phí và cơ hội phát triển kỹ năng lãnh đạo chuyên nghiệp, song hành với việc học tập tại trường) tại trường trung học tuyển dụng vào quân đội Mỹ trong tháng 3/1941 trong lúc Mỹ vẫn giữ quan điểm trung lập trong Thế chiến II.

Vì tinh thông tiếng Nhật nên Sakakida được tuyên thệ nhậm chức trung sĩ cùng với người đồng đội Arthur Komori (cũng là một Nisei), và trở thành 2 người Mỹ gốc Nhật đầu tiên được phân công làm việc tại Quân cảnh tình báo (CIP), và sau khi Mỹ tham chiến, CIP đổi tên thành Quân đoàn phản gián (CIC Quân đội, là một cơ quan tình báo thời Thế chiến II và tiền Chiến tranh Lạnh thuộc Quân đội Hoa Kỳ, bao gồm các điệp viên được đào tạo bài bản. Vai trò của cơ quan này được Quân đoàn Tình báo Lục quân Hoa Kỳ tiếp quản vào năm 1961 và Cơ quan Tình báo Lục quân Hoa Kỳ vào năm 1967.

Các chức năng của CIC hiện được thực hiện bởi tổ chức hậu duệ hiện đại của nó là Cơ quan Phản gián Lục quân Hoa Kỳ. Hiệp hội Quân đoàn Phản gián Quốc gia (NCICA), một hiệp hội cựu chiến binh, được thành lập vào những năm ngay sau Thế chiến II bởi các cựu đặc vụ tình báo quân sự). Sau khóa huấn luyện chuyên sâu, vào ngày 7/4/1941, Sakakida và đồng đội Komori lên tàu USS Republic (AP-33) trực chỉ Philippines (khi đó là thuộc địa của Mỹ). Trước khi đến Manila, họ được giao việc do thám cộng đồng Nhật kiều ở thủ đô Manila khi giả trang làm thủy thủ nhảy tàu.

Các lực lượng Mỹ buộc đầu hàng phát xít Nhật trên đảo Corregidor (cảng Manila, Philippines). Trung sĩ Richard Sakakida đã dịch thông điệp Mỹ đầu hàng sang tiếng Nhật.

Các lực lượng Mỹ buộc đầu hàng phát xít Nhật trên đảo Corregidor (cảng Manila, Philippines). Trung sĩ Richard Sakakida đã dịch thông điệp Mỹ đầu hàng sang tiếng Nhật.

Sau khi bùng nổ xung đột với Nhật Bản, Sakakida bị cảnh sát Philippines bố ráp và cuối cùng bị nhốt trong nhà lao Bilibid trong lúc ông vẫn giả trang dân thường, nhưng ông được phát hiện và được thả. Sakakida bắt liên lạc với người Mỹ, đầu tiên làm việc ở Bataan, sau đó đến Corregidor (hòn đảo trên vịnh Manila), làm các công việc liên quan đến phiên dịch và thẩm vấn các tù binh Nhật. Tình hình ở Corregidor dần trở nên vô vọng, Sakakida và Komori cuối cùng được lệnh di tản bằng máy bay khỏi nơi này.

Sakakida thuyết phục các cấp trên của mình để cho chưởng lý Clarence Yamagata thay thế vị trí của mình; Sakakida chưa vợ, trong khi Yamagata đã có vợ con đang sống ở Nhật Bản và những hoạt động thân Mỹ của ông ngày càng được công khai hơn. Máy bay chở Sakakida rời đi vào ngày 13/4/1942 và liên tục tìm cách tránh né đòn đánh chặn của quân Nhật. Sakakida đồng hành cùng với tướng quân Jonathan Wainwright đóng vai trò phiên dịch trong những lần thương thảo đầu hàng.

Sau khi chính quyền Corregidor ra hàng vào đầu tháng 5, “Sakakida trở thành người Mỹ gốc Nhật duy nhất bị các lực lượng Nhật bắt giữ ở Philippines”. Theo luật Nhật Bản vì Sakakida có gốc gác tổ tiên là người Nhật nên ông được xem là công dân Nhật Bản, đồng thời bị buộc tội phản quốc.

Suốt 2 tháng, Hiến binh Nhật (đội Cảnh sát quân sự của đế quốc Nhật Bản hoạt động từ 1881 đến 1945; lực lượng này lấy mẫu từ đội cảnh sát quân sự của Pháp với quyền hành cảnh sát khi thi hành công vụ của Lục quân đế quốc Nhật Bản, Bộ Nội vụ Nhật Bản, và Bộ Tư pháp Nhật Bản) đã thực hiện thẩm vấn và tra tấn Sakakida, song không thể thoát khỏi câu chuyện rằng người tù chỉ đơn thuần là một thường dân bị cưỡng ép làm việc cho quân đội Mỹ.

Cần phải biết rằng hồi tháng 8/1941, để đề phòng việc con trai có thể rơi vào tay phát xít Nhật, mẹ đẻ của Sakakida đã hủy bỏ quyền công dân Nhật của ông tại lãnh sự quán Nhật ở Hawaii, và do đó mà cáo buộc phản quốc đã bị loại bỏ.

Sakakida “bóc lịch” gần một năm trong các nhà tù khác nhau trước khi vụ việc của ông được xét lại vào tháng 2/1943 bởi Đại tá Nishiharu, Chánh tòa của Bộ Tư lệnh tập đoàn quân số 14. Ông Nishiharu kết luận rằng phạm nhân Sakakida rất có thể là người vô tội, vì vậy vào tháng 3 năm đó đã thuê ông làm nhân viên phiên dịch và giúp việc riêng. Tuy nhiên, Sakakida thường xuyên phải đối phó với những âm mưu xảo quyệt nhằm khiến ông phản bội lại chính mình. Dù vậy, an ninh vẫn hết sức lỏng lẻo và Sakakida thường bị bỏ lại với rất nhiều tài liệu quân sự nhạy cảm, ông đã tìm cách học thuộc lòng hoặc đánh cắp chúng.

Khi một quý bà đến văn phòng Cố vấn quân pháp nhằm xin giấy phép để gặp chồng mình tên là Ernest Tupas vốn là một thủ lĩnh du kích đang bị cầm tù, chớp lấy thời cơ đó, Sakakida đã mạo hiểm hé lộ danh tính thực sự của mình cho người phụ nữ. Bà Tupas đã bí mật kết nối Sakakida với lực lượng kháng chiến Philippines và ông đã chuyển thông tin tình báo cho họ.

Sakakida cũng vạch ra một kế hoạch giúp vượt ngục hàng loạt cho cả Ernest Tupas và các tù nhân Philippines yêu nước khác. Đó là một đêm tháng 10/1943, mọi thứ đã được sắp đặt xong xuôi. Sakakida giả trang một sĩ quan Nhật dẫn theo một toán quân du kích tiến thẳng vào nhà tù Muntinglupa. Sau khi hạ đo ván hoặc chế ngự những tên lính canh không hề hay biết, lực lượng giải cứu đã giải thoát cho gần 500 tù nhân. Sakakida điềm tĩnh quay lại nơi làm việc mà vẫn không một ai hay biết.

Một bài viết có từ năm 1996 của hãng tin AP đăng cáo phó của ông Sakakida có đoạn viết “3 cựu lính du kích gồm một linh mục Công giáo La Mã đã tuyên bố rằng “Anh ta (Sakakida) đã bịa đặt vai trò của mình trong cuộc đại vượt ngục”. Nhưng thượng nghị sĩ Daniel Akaka của tiểu bang Hawaii đã phản hồi rằng “câu chuyện về Sakakida đã được xác nhận rất nhiều lần”.

Tháng 12/1944, Sakakida quyết định đã đến lúc phải chạy trốn vào rừng rậm và tìm cách để tái gia nhập du kích Philippines nơi ông đã bị thương vì một mảnh đạn trong cuộc đấu súng với một đội điều tra Nhật Bản. Bị cắt đứt thông tin, quân du kích đã phải ăn cỏ và quả mọng để sống sót. Vài tuần sau khi Thế chiến II kết thúc, cuối cùng Sakakida cũng được lính Mỹ tìm thấy với hình dạng đang mặc một bộ quân phục Nhật rách bươm, bị sốt rét, kiết lị.

Sakakida được các viên sĩ quan Mỹ tra hỏi về danh tính. Cựu đồng đội Arthur Komori (khi đó đang làm việc cho tướng Elliott Thorpe ở Tokyo đang tìm kiếm Sakakida nên đã chuyển lời tới cho các sĩ quan Mỹ thẩm vấn ở Philippines và bảo lãnh ông làm việc cho Quân đoàn phản gián (CIC).

Trung sĩ Richard Sakakida bị tình báo Mỹ thẩm vấn vào thời điểm cuối Thế chiến II.

Trung sĩ Richard Sakakida bị tình báo Mỹ thẩm vấn vào thời điểm cuối Thế chiến II.

Trao thưởng thời hậu chiến

Khi quay lại CIC, Sakakida được thăng quân hàm Thượng sĩ. Ông ra làm chứng tại phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh của tướng quân Tomoyuki Yamashita (Đại tướng thuộc Lục quân đế quốc Nhật Bản trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông nổi tiếng với chiến công đánh chiếm các thuộc địa Anh ở Malaya và Singapore, với biệt danh "Con hổ Mã Lai") vì ông từng làm thông dịch viên tại văn phòng cố vấn quân pháp của vị tướng này.

Sakakida ở tại Manila suốt 18 tháng và làm việc trong các cuộc điều tra tội ác chiến tranh, ông đã gặp lại một số kẻ từng tra tấn mình và ông cũng tha thứ cho lỗi lầm của họ. Sau chiến tranh, Sakakida được trực tiếp bổ nhiệm với cấp bậc Trung úy và chuyển sang làm việc cho Không lực Hoa Kỳ.

Ngày 25/9/1948, Sakakida kết hôn với bà Cherry M. Kiyosaki ở Maui (Hawaii) trước khi đóng quân ở Tokyo, nơi đây ông làm việc cho Văn phòng điều tra đặc biệt (OSI, là tên của một số đơn vị chính phủ khác nhau với các chức năng riêng biệt; gồm OSI của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ - đơn vị đã truy tố tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã cho đến năm 2010, và OSI của Không quân Hoa Kỳ - một đơn vị điều tra lớn về hình sự, phản gián và gian lận trong Không quân…).

Tại OSI, Sakakida chịu trách nhiệm điều phối với cảnh sát và các cơ quan điều tra Nhật Bản nhằm ngăn chặn những hoạt động chợ đen ở Tokyo. Ông đã kinh qua 19 trong số 27 năm phục vụ cho Không lực Mỹ ở Nhật Bản, và ông nghỉ hưu với tư cách là chỉ huy của Không quân OSI (AFOSI) ở Nhật Bản, đeo lon Trung tá vào năm 1975.

Sau khi về hưu, Sakakida sống ở Fremont (tiểu bang California) và qua đời vì căn bệnh ung thư phổi vào ngày 23/1/1996. Vì những thành tích cống hiến trong thời chiến của mình mà Sakakida được trao Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh, Ngôi sao Đồng, và 2 Huân chương khen thưởng. Tên của Sakakida cũng được ghi danh tại Đại sảnh danh vọng tình báo quân sự Mỹ. Chưa hết, ông còn nhận được 4 huy chương từ Chính phủ Philippines bao gồm Huân chương Bắc đẩu Bội tinh Philippines do đích thân ngài Đại sứ Raul Rabe trao tặng tại một buổi lễ được tổ chức tại đại sứ quán Philippines ở Washington, D.C vào ngày 15/4/1994.

Do tính nhạy cảm của hoạt động tình báo mật ở Philippines nên những vết thương của Sakakida không được quân đội Mỹ công nhận cho đến khi Thượng nghị sĩ Hawaii là ông Daniel Akaka đưa ra luật nâng cấp giải thưởng của Sakakida thành Huân chương cống hiến xuất sắc, đồng thời trao tặng ông Huân chương Trái tim tím, cả hai huân chương này được trao cho Sakakida vào năm 1999.

Phan Bình (Tổng hợp)

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/richard-sakakida-diep-vien-bi-an-o-philippines-i781470/