'Sóng' lãi suất dâng cao cuối năm, nhiều công cụ can thiệp phải kích hoạt
Áp lực vốn cuối năm đang 'thổi bùng' cuộc đua lãi suất huy động, khi có tới 29 ngân hàng tăng lãi suất kỳ hạn 6 tháng từ đầu quý IV/2025 và 'đỏ mắt' không thấy nhà băng nào giảm; liên ngân hàng leo lên mức cao nhất 3 năm. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã kích hoạt công cụ can thiệp mới.
Áp lực vốn cuối năm "thổi bùng" cuộc đua lãi suất
Khảo sát bảng lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng của gần 50 ngân hàng đến ngày 12/12 cho thấy, mặt bằng lãi suất đã tăng mạnh so với đầu quý IV/2025, với biên độ điều chỉnh khá rộng, lên đến 1,5 điểm phần trăm, có 29 nhà băng tăng lãi suất, đỏ mắt không thấy ngân hàng nào giảm
Theo đó, nhóm ngân hàng quy mô nhỏ và vừa dẫn đầu mức tăng, nổi bật nhất là PGBank với mức điều chỉnh tới 1,5 điểm phần trăm, tiếp theo là PVcomBank (1,3 điểm phần trăm), BacABank (1,25 điểm phần trăm), VikkiBank (1,1 điểm phần trăm) và HongLeong (1 điểm phần trăm). Trong nhóm này, ngân hàng tư nhân lớn như VPBank cũng điều chỉnh tăng mạnh, thêm 1 điểm phần trăm, phản ánh nhu cầu đẩy mạnh huy động vốn trong bối cảnh áp lực thanh khoản gia tăng vào thời điểm cuối năm.

Mặt bằng lãi suất hiện đã tăng mạnh so với đầu quý IV/2025. Ảnh: An Thu
Nhóm các ngân hàng như: Techcombank, VCBNeo, OCB, CIMB... cũng điều chỉnh tăng từ 0,6 - 0,9 điểm phần trăm, nhằm đáp ứng nguồn vốn cho tín dụng mùa cao điểm quý IV.
Điểm danh các ngân hàng đưa lãi suất niêm yết tại quầy 6 tháng lên trên 6%/năm có thể kể đến: PGBank (6,5%/năm), BacABank (6,5%/năm), VikkiBank (6,4%/năm), VCBNeo (6,2%/năm) và NCB (6,1%/năm) đang chịu áp lực huy động vốn lớn hơn mặt bằng chung, buộc phải nâng biên độ điều chỉnh mạnh hơn.
Nhìn chung, mặt bằng lãi suất kỳ hạn 6 tháng đang trong xu hướng tăng đồng loạt, với 29 nhà băng nâng lãi suất trong kỳ, trong khi "đỏ mắt" không thấy ngân hàng nào hạ lãi suất, chủ yếu do nhu cầu đảm bảo nguồn vốn ngắn hạn cuối năm, đáp ứng "cơn khát" thanh khoản lan rộng toàn hệ thống. Biến động lãi suất phân hóa mạnh giữa các nhóm ngân hàng cũng phản ánh khác biệt về cấu trúc nguồn vốn, mức độ phụ thuộc vào thị trường 1 và áp lực cạnh tranh trên thị trường huy động hiện nay.
Đáng chú ý, ở kỳ hạn 1 - 5 tháng vốn bị áp trần 4,75%/năm theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, hàng loạt ngân hàng đã nâng lãi suất lên kịch trần, với mức điều chỉnh tăng đáng kể so với cuối tháng 9/2025. Điều này phản ánh rõ ràng áp lực huy động vốn ngắn hạn khi bước vào thời điểm căng thẳng thanh khoản cuối năm.
Đơn cử, PGBank ghi nhận mức tăng cao nhất, lên tới 0,95 điểm phần trăm, phản ánh nhu cầu huy động vốn ngắn hạn rất lớn trong giai đoạn cuối năm. PVcomBank cũng tăng mạnh 1,45 điểm phần trăm, đưa mức lãi suất 3 tháng lên 4,75%/năm, cho thấy chiến lược cạnh tranh huy động khá rõ nét. Sacombank cũng có cú bật 1,3 điểm phần trăm lên sát trần (4,5%/năm)...
Biến động tăng mạnh nhất lại nằm ở nhóm ngân hàng vừa và nhỏ, vốn phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường 1, trong khi các ngân hàng có thanh khoản ổn định chỉ điều chỉnh ở mức nhẹ hơn. Điều này cho thấy mặt bằng lãi suất ngắn hạn đang chịu lực kéo lên đáng kể, đồng thời báo hiệu xu hướng cạnh tranh huy động có thể tiếp tục duy trì trong thời gian tới.
LDR vượt ngưỡng, ngân hàng khát vốn
Trong báo cáo về thị trường tiền tệ Công ty cổ phần Chứng khoán MBS (MBS) phát hành, khối nghiên cứu đánh giá, đến cuối tháng 11/2025, trung bình lãi suất kỳ hạn 3 tháng của nhóm ngân hàng quốc doanh tăng 13 điểm cơ bản so với cuối tháng mười lên mức 2,03%. Trong khi đó, trung bình lãi suất kỳ hạn 3 tháng của nhóm ngân hàng thương mại tư nhân tăng 28 điểm cơ bản lên mức 4,2%/năm.
Áp lực thanh khoản lan rộng
"Ngân hàng Nhà nước buộc phải điều chỉnh tăng lãi suất OMO, bởi tình trạng cạn thanh khoản đã trở nên rõ rệt và mang tính phổ biến trên phạm vi toàn hệ thống. Xu hướng này nhiều khả năng sẽ còn tiếp diễn, vì đây là vấn đề mang tính tổng thể của toàn ngành ngân hàng, chứ không chỉ xảy ra ở một vài ngân hàng".
Ông Trần Ngọc Báu - Chủ tịch Công ty cổ phần WiGroup, chuyên gia về kinh tế vĩ mô và tài chính tiền tệ.
Còn trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của nhóm ngân hàng thương mại tư nhân đến cuối tháng 11 tăng 27 điểm cơ bản so với đầu năm lên mức 5,32%, trong khi lãi suất của nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh giữ ổn định ở mức 4,7%.
"Việc mặt bằng lãi suất tiền gửi bắt đầu nhích tăng từ đầu quý IV phản ánh nhu cầu huy động vốn gia tăng nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng có xu hướng tăng mạnh vào cuối năm theo chu kỳ mùa vụ" - Khối nghiên cứu MBS nhận định.
Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến ngày 27/11, tín dụng nền kinh tế đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024, cao hơn tốc độ tăng cả năm 2024 (15,09%), cao nhất trong nhiều năm qua và vượt xa tốc độ tăng trưởng huy động toàn hệ thống.
Tỷ lệ cho vay/vốn huy động (LDR) hiện đang trở thành tâm điểm phản ánh rõ nét mức độ căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Theo đánh giá của chuyên gia Công ty cổ phần đầu tư AFA Capital, nguyên nhân cốt lõi khiến LDR leo lên mức cao là sự mất cân đối giữa tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động vốn. Dữ liệu cho thấy khoảng cách giữa tín dụng và huy động toàn nền kinh tế đã nới rộng lên gần 110%, một mức đáng báo động. Điều này cho thấy nhu cầu vốn cho vay đang vượt xa khả năng tự cân đối của các ngân hàng thương mại thông qua nguồn tiền gửi.
"LDR cao là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy mặt bằng lãi suất ngắn hạn tăng lên. Khi nguồn vốn huy động không theo kịp tốc độ giải ngân, ngân hàng thương mại phải chuyển sang vay mượn trên thị trường liên ngân hàng (thị trường 2)" - chuyên gia AFA Capital đánh giá.
Áp lực duy trì LDR dưới ngưỡng an toàn cùng với tình trạng thiếu thanh khoản đã tác động rõ rệt lên kênh huy động vốn trái phiếu Chính phủ.
Lãi suất liên ngân hàng vọt lên đỉnh 3 năm, phải mở rộng kênh hỗ trợ
Theo quan sát của khối phân tích MBS, lãi suất qua đêm liên ngân hàng đã liên tục duy trì đà tăng mạnh, từ mức 5,4% ở đầu tháng 11/2025 lên 6,4% vào cuối kỳ và tăng tiếp lên 7,5% trong những ngày đầu tháng 12, mức cao nhất trong vòng 3 năm qua. Lãi suất các kỳ hạn từ 1 tuần đến 1 tháng đang neo ở mức 7,2 - 7,4%, trong khi kỳ hạn 6 tháng ở mức 7,2%. Trước diễn biến này, Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất OMO lần đầu tiên trong 19 tháng lên mức 4,5%.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì trạng thái bơm thanh khoản qua kênh thị trường mở (OMO). Tính chung trong tháng 11, Ngân hàng Nhà nước đã bơm hơn 365.300 tỷ đồng với lãi suất 4%, kỳ hạn từ 7 - 105 ngày. Cùng với đó, lượng vốn đáo hạn trên OMO trong kỳ đạt gần 258.900 tỷ đồng. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ròng hơn 106.400 tỷ đồng trong kỳ, đánh dấu mức bơm ròng theo tháng cao nhất kể từ tháng 4/2024.
Tuy nhiên, theo chuyên gia AFA Capital, kênh hỗ trợ truyền thống như thị trường mở cũng đang chạm ngưỡng cao, thể hiện ở việc lượng OMO đang lưu hành đã vượt mốc 360.000 tỷ đồng. Sự phụ thuộc lớn vào kênh này, cùng với tỷ lệ cho vay trên vốn huy động ở mức cao, càng cho thấy tính cấp bách của việc bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho hệ thống ngân hàng.
Trong bối cảnh này, Ngân hàng Nhà nước đã kích hoạt công cụ can thiệp mới, đó là giao dịch hoán đổi ngoại tệ (FX Swap) ngày 5/12, Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua USD giao ngay từ các tổ chức tín dụng với tỷ giá 23.945
VND/USD và sẽ bán lại lượng ngoại tệ đó theo hợp đồng kỳ hạn 14 ngày với tỷ giá 23.955 VND/USD. Theo đánh giá, công cụ này sẽ hỗ trợ thanh khoản trong ngắn hạn.
Cùng với đó, sau 3 lần giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cuối năm với tổng mức giảm 0,75 điểm phần trăm, chênh lệch lãi suất giữa USD và VND sẽ thu hẹp, qua đó giảm bớt áp lực lên tỷ giá trong nước. Nhờ vậy, Việt Nam được kỳ vọng có thêm dư địa để duy trì mặt bằng lãi suất ổn định.














