Tạo cơ chế đặc biệt nhập quốc tịch Việt Nam để thu hút nguồn lực chất lượng cao
Tại phiên họp sáng 24/6, với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Quốc hội biểu quyết điện tử thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam
Trước đó, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết: Việc xây dựng Luật để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, bất cập của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Các chính sách trong dự thảo Luật cũng sẽ góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh giữa Việt Nam với các quốc gia khác trong việc thu hút lao động, đặc biệt là lao động chất lượng cao.
Với ý kiến đề nghị tiếp tục làm rõ "cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch", ông Nguyễn Hải Ninh cho biết, theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam, công dân nước ngoài và người không quốc tịch muốn nhập quốc tịch Việt Nam phải đáp ứng nhiều điều kiện chặt chẽ tại Điều 19 là đang thường trú tại Việt Nam và phải có Thẻ thường trú (thời gian thường trú tại Việt Nam là 5 năm tính từ ngày người đó được cấp Thẻ thường trú trừ những trường hợp là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ của công dân Việt Nam, trường hợp có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài phải có giấy tờ chứng minh việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng...

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh phát biểu
Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định khoản 2 và khoản 3 Điều 19 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao.
Theo đó, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19.
Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép. Các trường hợp này được nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nếu cư trú ở nước ngoài.
Hiện nay, Điều 8 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/02/20203 đã quy định cụ thể trường hợp có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, có lợi cho Nhà nước CHXHCN Việt Nam, bảo đảm bao hàm các trường hợp nêu tại Nghị quyết số 57/NQ-TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, trong thời gian tới, bên cạnh những nội dung quy định trong Nghị định số 16, Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa "cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch" nêu trong Nghị quyết số 57-NQ/TW để phù hợp tình hình mới trong quá trình xây dựng Nghị định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Các đại biểu Quốc hội ấn nút biểu quyết thông qua dự thảo Luật
Với ý kiến rà soát lại một số luật liên quan đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, ông Nguyễn Hải Ninh cho biết, để áp dụng thống nhất pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 5 theo hướng luật hóa quy định tại Điều 5 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc mà pháp luật quốc tịch của hầu hết các nước đều quy định. Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng hơn nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam.
Đồng thời, dự thảo Luật đã có quy định giao các Bộ, ngành và cơ quan có liên quan rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.