Tạo cơ chế thử nghiệm, định hình lại cho vay ngang hàng
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành 2 quyết định thiết lập môi trường và điều kiện thử nghiệm đối với giải pháp cho vay ngang hàng (P2P Lending), theo quy định tại Nghị định số 94/2025/NĐ-CP của Chính phủ.
Được vay tối đa 400 triệu đồng tại các giải pháp cho vay ngang hàng
Cho vay ngang hàng là hình thức kết nối trực tiếp giữa người cho vay và người vay tiền thông qua một nền tảng trực tuyến, không cần trung gian tài chính truyền thống như ngân hàng.
Theo Quyết định số 2866/QĐ-NHNN ngày 22/7/2025, dư nợ tối đa một khách hàng có thể vay tại một nền tảng P2P Lending là 100 triệu đồng. Đồng thời, giới hạn tổng dư nợ tại tất cả nền tảng tham gia cơ chế thử nghiệm được ấn định không quá 400 triệu đồng. Quy định này theo NHNN nhằm bảo đảm nguyên tắc quản trị rủi ro, giới hạn tổn thất cho cả bên cho vay và đi vay, phù hợp với tính chất thí điểm và góp phần ổn định hệ thống tài chính.

Hạn mức cho vay ngang hàng tối đa 400 triệu đồng. Ảnh Internet
Trong khi đó, Quyết định số 2970/QĐ-NHNN ngày 11/8/2025 ban hành yêu cầu các công ty P2P phải kết nối với Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia (CIC) để quản lý rủi ro.
P2P Lending xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2016, dưới dạng các công ty Fintech và thường nhắm đến phân khúc đối tượng khách hàng không tiếp cận được với ngân hàng, công ty tài chính. Hiện, số lượng các công ty có hoạt động trong lĩnh vực P2P Lending là khoảng 100 công ty, với nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
NHNN từng đánh giá một số thỏa thuận giữa các bên tham gia trong mô hình P2P Lending thiếu minh bạch, chưa có cơ chế giám sát việc sử dụng, quản lý vốn vay của loại hình này, nên có thể dẫn tới tranh chấp giữa các bên. Việc đưa ra các nguyên tắc và quy định để thử nghiệm có kiểm soát với fintech cho vay ngang hàng là cần thiết.
Đầu tháng 5/2025, Chính phủ ban hành Nghị định 94 ngày 29/4 về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox), các giải pháp công nghệ tài chính (fintech) trong lĩnh vực ngân hàng.
Theo đó, từ 1/7, hoạt động cho vay ngang hàng được thử nghiệm trong 2 năm, cùng với chấm điểm tín dụng, chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở. Hoạt động thử nghiệm P2P Lending sẽ được cấp phép trong 2 năm, nhưng không áp dụng với các nhà băng ngoại.
Theo IMARC Group, quy mô thị trường P2P Lending Việt Nam đạt 5,5 tỷ USD năm 2024 và có thể chạm mốc 52,7 tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) 10,2%. Tiềm năng được thúc đẩy bởi dân số hơn 100 triệu người, trong đó 68% ở độ tuổi lao động, thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt khoảng 4.700 USD, cùng xu hướng tiêu dùng dịch vụ tài chính số ngày càng tăng.
Đặc biệt, 98% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) – nhóm thường khó tiếp cận vốn ngân hàng do thiếu tài sản đảm bảo hoặc lịch sử tín dụng – đang trở thành đối tượng khách hàng quan trọng của P2P Lending.
Theo TS Cấn Văn Lực, cho vay ngang hàng là kênh bổ sung vốn hữu hiệu, nhất là với cá nhân và DNVVN. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng, pháp lý và công nghệ là rất lớn. Do vậy, việc NHNN đặt ra khuôn khổ kiểm soát ngay từ đầu là bước đi cần thiết để thị trường phát triển lành mạnh.
2 quyết định này được xem là bước đi thiết thực góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện, đồng thời khẳng định vai trò của cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong việc phát triển thị trường công nghệ tài chính tại Việt Nam.
Ngăn chặn P2P biến tướng
Điểm mạnh nổi bật của mô hình cho vay ngang hàng là khả năng kết nối trực tiếp giữa người có tiền nhàn rỗi và người cần vay vốn thông qua nền tảng trực tuyến, thay vì cần vai trò trung gian của các tổ chức tài chính truyền thống. Nhờ đó, người vay có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn hơn, thủ tục nhanh chóng, đa dạng hình thức vay, mức lãi suất có thể cạnh tranh. Với phân khúc khách hàng cá nhân, các nền tảng P2P thường cung cấp nhiều lựa chọn vay như: vay tín chấp dựa trên lương, hộ khẩu, đăng ký xe máy, hoặc đăng ký xe ô tô.
Các khoản vay trên nền tảng P2P Lending thường là khoản vay nhỏ, không có tài sản đảm bảo, tức đa phần là vay tín chấp. “Với đặc điểm đó, rủi ro nợ xấu là rất cao, nợ xấu tại nhiều công ty có thể lên tới hơn 50% để bù đắp rủi ro, buộc các công ty phải đẩy lãi suất lên để bù đắp rủi ro. Do đó, lãi suất của P2P Lending tại Việt Nam hiện nay thường cao hơn nhiều so với ngân hàng" - PGS.TS Nguyễn Hữu Huân - Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh nói.
Đã có nhiều mô hình P2P Lending tại Việt Nam lại "biến tướng" khỏi mô hình gốc, không còn là nền tảng trung lập kết nối hay mang đúng bản chất của một nền tảng cho vay ngang hàng. Xuất hiện tình trạng xuất hiện tình trạng một số công ty P2P Lending thực chất hoạt động như "cò" tín dụng, giới thiệu khách hàng cho các bên cầm đồ. Qua đó, bên cầm đồ hoặc tín dụng đen dễ dàng tiếp cận người có nhu cầu vay và trực tiếp triển khai hoạt động cho vay vớt lãi suất cao và đòi nợ kiểu “khủng bố".
Bên cạnh đó, các thỏa thuận giữa các bên trong mô hình P2P Lending, bao gồm giữa công ty P2P Lending với nhà đầu tư, với bên thứ ba hoặc với người vay, vẫn còn thiếu minh bạch và rõ ràng. Nhiều hợp đồng chưa có tính ràng buộc pháp lý đầy đủ, đồng thời thiếu cơ chế giám sát và hậu kiểm hiệu quả đối với việc sử dụng và quản lý nguồn vốn vay. Điều này tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp, khiếu nại giữa các bên tham gia.
Cách đây vài năm, một số nền tảng mất khả năng thanh khoản như: VO247, Fiin Credit, khiến nhà đầu tư hoang mang.
Quyết định số 2970 quy định việc kết nối với CIC cho phép các công ty P2P Lending kiểm soát dư nợ tối đa của khách hàng trên từng nền tảng và toàn hệ thống. Bên cạnh đó, khi có sự đồng ý của người vay, thông tin tín dụng có thể được cung cấp cho bên cho vay, từ đó góp phần nâng cao chất lượng khoản vay.
Theo NHNN, việc ban hành hai quyết định này khẳng định sự chủ động của NHNN trong việc đồng hành cùng các tổ chức công nghệ tài chính. Tuy nhiên, cơ quan quản lý vẫn đặt trọng tâm vào việc kiểm soát rủi ro, nhằm bảo đảm quá trình thử nghiệm diễn ra an toàn và hiệu quả.
Dù vậy, theo các chuyên gia, đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ P2P Lending, NHNN cần yêu cầu công khai mô hình hoạt động, công khai lãi suất, biểu phí và các điều kiện phạt rõ ràng, dễ hiểu, cấm các điều khoản “ẩn” hoặc đánh lừa người dùng. Xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro cho nhà đầu tư, cung cấp xếp hạng tín dụng minh bạch, đánh giá khả năng vỡ nợ, mô hình stress test để nhà đầu tư hiểu rõ trước khi rót vốn. Cơ chế xử lý khiếu nại cũng phải được thiết lập rõ ràng, minh bạch, hiệu quả nhằm bảo vệ người dùng trong trường hợp phát sinh tranh chấp.