Thẩm mỹ của điện ảnh Á châu qua 1OO tác phẩm nổi bật

Hướng tới kỷ niệm lần tổ chức thứ 30, LHP Quốc tế Busan (BIFF) vừa công bố danh sách 'Asian Cinema 100' tôn vinh 100 bộ phim điện ảnh châu Á hay nhất mọi thời đại. Qua danh sách này, lịch sử điện ảnh của lục địa này đã hiện lên, từ đó làm nổi bật di sản của bộ môn nghệ thuật thứ 7 một cách có hệ thống.

Danh sách này được tuyển chọn từ 161 “giám tuyển” đến từ 34 quốc gia. Họ là các đạo diễn, nhà sản xuất, diễn viên, nhà phê bình, nhà nghiên cứu và ban tổ chức LHP. Kết quả, có 118 tác phẩm lọt vào danh sách (do có nhiều bộ phim đồng hạng). Đây được xem là những khoảnh khắc đã định nghĩa điện ảnh châu Á, cho thấy thẩm mỹ và nét đặc trưng riêng biệt.

Điện ảnh Việt Nam có 2 tác phẩm góp mặt là “Xích lô” của đạo diễn Trần Anh Hùng và “Bên trong vỏ kén vàng” của đạo diễn Phạm Thiên Ân. Cả 2 cùng xếp hạng 88 và điều đặc biệt trùng hợp là tại LHP Cannes 2024, cả 2 đều được xướng tên, lần lượt với giải Đạo diễn xuất sắc nhất cho “Muôn vị nhân gian” và Camera vàng (Camera d'Or) cho phim điện ảnh đầu tay nói trên.

10 vị trí đầu tiên của bảng xếp hạng.

10 vị trí đầu tiên của bảng xếp hạng.

Đứng đầu danh sách là 2 nhà làm phim huyền thoại của Đài Loan (Trung Quốc), những người tiên phong cho “làn sóng mới” của điện ảnh nơi này vào thập niên 1980. Đó là Dương Đức Xương với “A Brighter Summer Day” (Cổ Lĩnh Nhai Thiếu Niên Sát Nhân Sự Kiện) và Hầu Hiếu Hiền với "A City of Sadness” (Bi Tình Thành Thị). Việc 2 tác phẩm này được vinh danh không gây quá nhiều bất ngờ bởi từ lâu đây được xem là 2 kiệt tác của điện ảnh châu Á, luôn luôn xuất hiện đầu tiên mỗi khi nhắc đến môn nghệ thuật thứ 7 của lục địa này.

Trong đó “A Brighter Summer Day” dựa trên câu chuyện có thật về một vụ giết người do bạn cùng lớp của Dương Đức Xương thực hiện. Tác phẩm qua đó cho thấy những tâm tư, tình cảm phức tạp của nhiều cá nhân, nhất là những thanh thiếu niên còn ngồi trên ghế nhà trường ở giai đoạn Đài Loan có nhiều biến động. Bộ phim được đánh giá cao bởi khả năng lột tả nội tâm nhân vật sâu sắc lẫn “tay nghề” của vị đạo diễn khiến mỗi khung hình đều sở hữu ánh sáng, màu phim, thiết kế bối cảnh... tuy đơn giản nhưng là những tuyệt tác để lại dấu ấn sâu đậm.

Tác phẩm tuy được vinh danh ở Đài Loan và các LHP châu Á khác nhưng lại chưa được công nhận ở trường quốc tế. Theo đó, “A Brighter Summer Day” từng đại diện Đài Loan tham gia Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất ở Oscar 1992 nhưng không lọt vào vòng trong. Phim cũng bị từ chối tại LHP Cannes 1991 vì thời lượng quá dài (gần 4 giờ đồng hồ). Trong khi đó “A City of Sadness” của Hầu Hiếu Hiền lại “khá khẩm hơn” khi trở thành phim Đài Loan đầu tiên giành giải Sư tử vàng tại LHP Venice 1989 nhưng cũng chưa có cơ duyên tại Oscar 1990 dù cũng đại diện cho Đài Loan.

Phim gây ấn tượng bởi cách đạo diễn họ Hầu khai thác bi kịch của các nhân vật một cách bình thản nhưng ẩn sau đó là những nỗi đau không thể chịu nổi. Điều này cũng là nét đặc trưng của ông như Thư Kỳ sau này tiết lộ Hầu Hiếu Hiền rất tâm đắc với lý thuyết tảng băng trôi của Ernest Hemingway khi cho rằng đôi khi những điều bình dị nhất lại có khả năng chuyên chở được nhiều cảm xúc phức tạp nhất.

Đứng ngay sau 2 phim này là 2 tuyệt tác của các bậc thầy Nhật Bản, gồm “Tokyo Story” (1953) của Ozu Yasujiro thứ 3 và “Rashomon” (1950) của Kurosawa Akira ở vị trí thứ 6. Có tuổi đời hơn nửa thế kỷ, 2 tác phẩm này vẫn giữ được sức ảnh hưởng cho đến ngày nay và được xem là chuẩn mực của các đạo diễn có nhãn quan và góc nhìn riêng biệt.

Cũng thuộc top 10 tiếp tục là Dương Đức Xương với “A One and a Two” (2000) ở vị trí thứ 7 và một đại diện tiêu biểu của Hongkong - Vương Gia Vệ với 2 phim “In the Mood for Love” (“Hoa Dạng Niên Hoa”, 2000) đứng thứ 4 và “Chungking Express” (“Trùng Khánh Sâm Lâm”, 1994) thứ 10.

Đồng hạng 10 cũng là một tên tuổi nổi bật của điện ảnh Thái Lan - Apichatpong Weerasethakul với “Uncle Boonmee Who can Recall his Past Lives” (2010). Các vị trí số 5, 8 và 9 lần lượt là “Aparajito, The Unvanquished” (Satyajit Ray, 1956), “Parasite” (“Ký sinh trùng”, Bong Joon Ho, 2019) và “Close Up” (Abbas Kiarostami, 1990).

Xét về số lượng, Hầu Hiếu Hiền là đạo diễn có nhiều phim lọt vào danh sách nhất khi có đến 8 tác phẩm. Điều này là sự an ủi lớn khi ông đã phải rời xa điện ảnh sau khi được chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ. Ở LHP Busan năm nay, Thư Kỳ - minh tinh được ông dẫn dắt và nổi tiếng với các tác phẩm của đạo diễn họ Hầu - cũng sẽ góp mặt với phim “Girl” như món quà gửi đến “người thầy” của mình.

Nữ diễn viên Đài Loan cho biết Hầu Hiếu Hiền chính là người đã khuyến khích cô trở thành đạo diễn vào năm 2011. Khi ấy cô rất hoài nghi vào bản thân nhưng 2 năm sau, người đạo diễn thân thiết nhắc lại về ý tưởng này thêm một lần nữa, từ đó cô đã quyết tâm thực hiện dự án trong suốt một thập kỷ và chính thức ra mắt năm nay. Đây cũng là tác phẩm được kỳ vọng sẽ làm nên chuyện tại LHP Quốc tế Venice khi tranh giải Sư tử vàng.

Đứng ngay sau Hầu Hiếu Hiền là 2 tên tuổi huyền thoại Ozu và Kurosawa với 6 phim. Đồng 5 phim là Abbas Kiarostami (Iran), Lee Chang Dong (Hàn Quốc) và Apichatpong Weerasethakul (Thái Lan). Những đạo diễn này đều là những cái tên nổi bật, tạo được dấu ấn rất riêng, không thể trộn lẫn.

Không thể phủ nhận khi nhìn vào danh sách, điện ảnh Hoa ngữ đã chứng minh được vị thế khi dẫn đầu về số lượng phim cùng những cái tên nổi bật: Vương Gia Vệ và Lý An có 4 phim, Trương Nghệ Mưu và Giả Chương Kha 3 phim, Trần Khải Ca và Thái Minh Lượng 2 phim, Phí Mục, Hứa An Hoa, Vương Bỉnh, Điền Tráng Tráng... có 1 phim.

Bên cạnh nền điện ảnh này, Nhật Bản, Hàn Quốc, Iran và Ấn Độ đã góp phần làm đầy danh sách với những cái tên rất nổi bật như Hayao Miyazaki, Hirokazu Kore-eda, Hamaguchi Ryusuke, Kim Ki Duk, Park Chan Wook, Hong Sang Soo, Asghar Farhadi, Mohsen Makhmalbaf...

Nếu so với danh sách 100 phim hay nhất đầu thế kỷ 21 do The New York Times bình chọn, thì 2 danh sách giao nhau ở 3 phim có thứ hạng cao nhất gồm “Ký sinh trùng”, “In the Mood for Love” và “Spirited Away” (“Vùng đất linh hồn”, Miyazaki Hayao).

Bên cạnh những tác phẩm đã ra đời lâu và là tượng đài, thì những bộ phim gần đây nhưng đã nhanh chóng góp mặt. Có thể kể đến 2 bản chuyển thể từ tác phẩm của Haruki Murakami - “Burning” (Lee Chang-dong, số 33) và “Drive My Car” (Hamaguchi Ryusuke, số 38) cũng như “Monster” (Hirokazu Kore-Eda) và “Bên trong vỏ kén vàng” (Phạm Thiên Ân) đồng hạng 88.

Bên cạnh các phim chính kịch, phim hoạt hình cũng được đề cập và đa số đến từ studio Ghibli của Miyazaki Hayao hay Takahata Isao. Điện ảnh Campuchia cũng gây bất ngờ với “The Missing Picture” (2013) từng thắng giải Un Certain Regard ở LHP Cannes, khai thác câu chuyện về giai đoạn Khmer đỏ bằng hình thức stop-motion ấn tượng.

Và như bất cứ danh sách nào, bảng xếp hạng này cũng thiếu vắng rất nhiều tác phẩm và đạo diễn nổi bật. Đơn cử điện ảnh Iran tuy có nhiều cái tên nhưng Jafar Panahi - người cũng được xem là tên tuổi nổi bật của trào lưu Làn sóng mới tại quốc gia Trung Đông này với nhiều tác phẩm gây tiếng vang lớn như “The White Balloon” (1995), “The Mirror” (1997), “Offside” (2006)... lại không hề xuất hiện. Trong khi đó ông vừa chiến thắng Cành cọ vàng tại LHP Cannes vừa qua với “It Was Just an Accident”. Trong khi đó các nhà làm phim như Trương Nghệ Mưu, Trần Anh Hùng... lại chỉ có một số ít tác phẩm góp mặt dù “Thu Cúc đi kiện”, “Đường về nhà”, “Thập diện mai phục”, “Mùa đu đủ xanh”, “Mùa hè chiều thẳng đứng”... hoàn toàn xứng đáng nhưng lại vắng bóng.

Với điện ảnh Việt Nam, việc chỉ có 2 phim được điểm mặt chỉ tên cũng để lại một dấu hỏi lớn vì sao dẫu có nhiều tác phẩm để lại dấu ấn nhưng chưa được ghi nhận đủ. Đơn cử có những phim không hề vô danh như “Bao giờ cho đến tháng Mười” của đạo diễn Đặng Nhật Minh từng được CNN bình chọn là 1 trong 18 phim châu Á hay nhất mọi thời đại vào năm 2008 hay “Song lang” của Leon Lê từng nằm trong Top 30 phim nhạc kịch Queer hay nhất thế giới... nhưng lại vắng bóng.

Điều này cho thấy trên trường thế giới, môn nghệ thuật thứ 7 của nước ta vẫn còn khá khiêm tốn, chưa được chú ý đủ dù không thiếu tác phẩm chất lượng. Dẫu điều này có thể lý giải bởi nhiều lý do như thiên kiến của ban bầu chọn hay các phim như “Bao giờ cho đến tháng Mười” không đủ chất lượng do ra mắt khá lâu, lưu trữ chưa được hoàn hảo... nhưng đây cũng là cơ hội để nhìn nhận lại và có những chiến lược dài hơi hơn để màn ảnh nước nhà từng bước ghi dấu trong điện ảnh khu vực.

Đoàn Tuấn Anh

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/tham-my-cua-dien-anh-a-chau-qua-1oo-tac-pham-noi-bat-i782607/