Thế nào là tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp?

TAND Tối cao đề nghị giữ nguyên tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là 'không thanh toán được khoản nợ sẽ đến hạn trong 6 tháng hoặc khoản nợ đã đến hạn nhưng chưa quá 6 tháng'...

Mới đây, TAND Tối cao đã ban hành Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận tại Tổ về dự án Luật Phá sản (sửa đổi).

Đáng chú ý đã có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề xác định tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

 Người lao động đang làm việc. Ảnh: NGUYỆT NHI

Người lao động đang làm việc. Ảnh: NGUYỆT NHI

Tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp

Cụ thể, về giải thích từ ngữ (Điều 5), có ý kiến đề nghị quy định việc xác định tình trạng mất khả năng thanh toán theo 5 tiêu chí:

- Mức tỉ lệ phần trăm tối thiểu của khoản nợ quá hạn trên tổng tài sản;

- Thời hạn không thanh toán là 9 tháng hoặc 12 tháng;

- Theo kết quả phân loại nợ của Ngân hàng Nhà nước đối với các khoản nợ vay;

- Loại trừ trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán vì lý do bất khả kháng hay trở ngại khách quan;

- Rà soát khái niệm nợ bảo hiểm xã hội để phù hợp với khái niệm chậm đóng bảo hiểm xã hội và các thời hạn chậm đóng theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

Đối với ý kiến trên, TAND Tối cao xin giữ nguyên tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, vì các lý do:

Thứ nhất, thời hạn 6 tháng là khoảng thời gian trung bình cần thiết để doanh nghiệp, hợp tác xã xác định có nguồn tiền để thanh toán khoản nợ đến hạn hay không. Đây là khoảng thời gian mà thông lệ quốc tế nhiều nước quy định và nhận được sự đồng thuận, đề xuất từ nhiều nhà nghiên cứu, hoạt động thực tiễn.

(Theo dự thảo Luật Phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán được khoản nợ sẽ đến hạn trong 6 tháng hoặc khoản nợ đã đến hạn nhưng chưa quá 6 tháng - PV)

Thứ hai, kết quả phân loại nợ của Ngân hàng Nhà nước dùng cho hoạt động tín dụng ngân hàng, việc chậm đóng bảo hiểm xã hội không phản ánh tình hình tài chính, nguồn tiền thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Thứ ba, thực tiễn thụ lý, giải quyết vụ việc phá sản cho thấy rất khó xác định chính xác tổng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã vào thời điểm thụ lý đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phục hồi.

Thứ tư, doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ, mất khả năng thanh toán vì bất cứ lý do gì, kể cả do sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan thì đều được xác định là không có khả năng thanh toán khoản nợ và đều có cơ hội để phục hồi hoặc bị phá sản.

Thứ năm, thông lệ quốc tế cho thấy, các nước không lựa chọn tiêu chí mức tỉ lệ phần trăm tối thiểu của khoản nợ quá hạn trên tổng tài sản để làm căn cứ xác định tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

Làm rõ số khoản nợ mà doanh nghiệp không thanh toán

Về ý kiến đề nghị làm rõ số khoản nợ mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán được là một hay tất cả các khoản nợ đến hạn, TAND Tối cao cho rằng để tránh trường hợp lợi dụng để chây ỳ việc trả nợ, dự thảo Luật quy định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là không thanh toán được dù chỉ một khoản nợ khi đến hạn.

Về ý kiến đề nghị quy định khái niệm thù lao cho thẩm phán, chấp hành viên, kiểm sát viên tính vào chi phí phục hồi, phá sản như quản tài viên, TAND Tối cao có ý kiến: Quản tài viên không phải là công chức, họ tham gia thủ tục phục hồi, phá sản và hưởng thù lao từ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phục hồi, phá sản và tính vào chi phí phục hồi, phá sản. Thẩm phán, chấp hành viên, kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ công vụ và hưởng lương từ ngân sách nhà nước nên lương của họ không được trả từ chi phí phục hồi, phá sản.

Về ý kiến đề nghị tái lập "Tổ quản lý, thanh lý tài sản" với sự tham gia của các cơ quan có thẩm quyền (tòa án, VKS, cơ quan thi hành án), bảo đảm hiệu quả, đồng bộ giữa các cơ quan, TAND Tối cao giải trình rằng thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 đã cho thấy cơ chế “Tổ quản lý, thanh lý tài sản" phát sinh nhiều vướng mắc, bất cập từ chế độ trách nhiệm tập thể, tính kiêm nhiệm và thiếu chuyên nghiệp dẫn đến thiếu hiệu quả. Chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản được xây dựng trên thông lệ quốc tế, bảo đảm tính chuyên nghiệp, xã hội hóa cao, giúp tối đa hóa giá trị tài sản phá sản. Việc tăng cường phối hợp liên ngành giữa các cơ quan đã được quy định tại Điều 15 dự thảo Luật để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản.

Góp ý về thẩm quyền của tòa án

Về ý kiến đề nghị bổ sung quy định về thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc chuyển vụ việc phá sản giữa các tòa án có thẩm quyền, việc nhập các vụ án phá sản khi doanh nghiệp có nhiều chi nhánh hoặc hoạt động tại nhiều địa phương, TAND Tối cao cho biết sẽ tiếp thu các ý kiến, nghiên cứu bổ sung nội dung này vào văn bản hướng dẫn thi hành Luật.

Về ý kiến đề nghị Chánh án TAND Tối cao quy định phạm vi thẩm quyền lãnh thổ của TAND khu vực, đảm bảo tính chủ động và linh hoạt, TAND Tối cao cho rằng dự thảo Luật đã quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định phạm vi thẩm quyền lãnh thổ của TAND khu vực để thống nhất với quy định của Luật Tổ chức TAND.

YẾN CHÂU

Nguồn PLO: https://plo.vn/the-nao-la-tinh-trang-mat-kha-nang-thanh-toan-cua-doanh-nghiep-post882621.html