Thích ứng với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững

Trước những tác động ngày càng khốc liệt của biến đổi khí hậu (BĐKH), nông dân Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - vùng đất được ví như 'vựa lúa, vựa cá' của cả nước đang từng ngày thay đổi tư duy, mạnh dạn chuyển sang mô hình sản xuất 'thuận thiên'. Những cách làm mới, sáng tạo từ thực tiễn ruộng đồng không chỉ giúp bà con thích ứng với thiên nhiên, mà còn mở ra hướng đi bền vững cho nông nghiệp xanh ở miền Tây Nam Bộ.

Mùa nước nổi ở miền Tây. Ảnh: Minh Anh

Mùa nước nổi ở miền Tây. Ảnh: Minh Anh

Những nỗ lực từ chính sách đến hành động

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi BĐKH toàn cầu. Hàng năm, đất nước ta phải hứng chịu hàng chục cơn bão, áp thấp nhiệt đới, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở đất và lũ lụt. Thiệt hại do thiên tai gây ra được ước tính chiếm từ 1 đến 1,5% GDP mỗi năm, con số không chỉ phản ánh tổn thất vật chất, mà còn là lời cảnh tỉnh về sự cấp bách trong việc ứng phó và thích nghi với khí hậu đang thay đổi nhanh chóng.

BĐKH không chỉ phá vỡ cân bằng sinh thái, mà còn đe dọa an ninh nguồn nước, an ninh lương thực và đời sống của hàng triệu người dân, đặc biệt là ở những vùng dễ tổn thương như ĐBSCL, nơi phần lớn dân cư sống nhờ vào nông nghiệp. Trước thách thức đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách mang tầm chiến lược nhằm ứng phó với BĐKH và phát triển bền vững. Nhiều đạo luật, chương trình hành động đã được triển khai như Luật Phòng, chống thiên tai (sửa đổi), Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước; cùng hàng loạt kế hoạch quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ rừng và phục hồi hệ sinh thái. Đặc biệt, Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về “Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH” được xem là dấu mốc quan trọng, đặt con người và thiên nhiên vào mối quan hệ hài hòa. Nghị quyết xác định, thay vì chống lại, cần “thuận thiên”, sống cùng thiên nhiên, tận dụng lợi thế tự nhiên để phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Chính từ tinh thần đó, nhiều mô hình sản xuất mới đã được khuyến khích triển khai tại các địa phương vùng ĐBSCL, khơi dậy sức sáng tạo và tinh thần tự chủ trong nông dân.

Với đặc điểm địa hình thấp trũng, mạng lưới sông ngòi dày đặc, ĐBSCL là khu vực nhạy cảm nhất trước tác động của BĐKH. Trong vài thập niên qua, hiện tượng xâm nhập mặn diễn ra ngày càng gay gắt, mực nước ngầm suy giảm, đất nông nghiệp bị nhiễm phèn, sạt lở bờ sông, bờ biển xảy ra thường xuyên hơn. Nhiều diện tích lúa ba vụ năng suất thấp, thậm chí mất trắng vì thiếu nước hoặc nhiễm mặn.

Hàng trăm nghìn hộ dân phải thay đổi tập quán canh tác đã tồn tại hàng chục năm. Nỗi lo “mất mùa, mất đất” trở thành hiện thực ở nhiều vùng trọng điểm lúa như: Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Cà Mau... “Ngày trước, làm ruộng ba vụ mà thu không đủ bù chi phí, năm nào lũ thấp hay nước mặn lên sớm là coi như trắng tay” - anh Nguyễn Bính, nông dân xã Hiệp Hưng (thành phố Cần Thơ) chia sẻ. Thế nhưng, cũng chính trong gian khó ấy, người nông dân miền Tây đã thể hiện bản lĩnh và sự thích ứng đáng khâm phục. Họ không cam chịu trước biến động của tự nhiên, mà chủ động tìm hướng đi mới, từ trồng lúa sang trồng sen, từ canh tác độc canh sang mô hình đa dạng cây trồng, vật nuôi.

Cùng với sự hỗ trợ của các chương trình khuyến nông, chuyển giao khoa học kỹ thuật, nhiều hộ dân đã bắt đầu sản xuất “thuận thiên”, canh tác dựa vào quy luật tự nhiên của vùng đất, tận dụng nước lũ, phèn, mặn làm lợi thế để phát triển mô hình nông nghiệp linh hoạt, ít rủi ro.

Bà con chuyển đổi sang mô hình “sen-cá” thích ứng với BĐKH và tăng thu nhập. Ảnh: Minh Anh

Bà con chuyển đổi sang mô hình “sen-cá” thích ứng với BĐKH và tăng thu nhập. Ảnh: Minh Anh

Hướng đi bền vững từ những cánh đồng miền Tây

Nếu như trước kia, người nông dân ĐBSCL quen với lối canh tác “lấy công làm lời”, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và năng suất, thì nay họ đang thay đổi mạnh mẽ từ tư duy “chống thiên nhiên” sang “sống hòa hợp với thiên nhiên”. Cách làm mới ấy được gọi là sản xuất “thuận thiên” nhằm khai thác lợi thế của môi trường tự nhiên, biến những yếu tố tưởng chừng bất lợi như nước lũ, phèn, mặn... thành cơ hội để phát triển kinh tế.

Tại xã Phụng Hiệp (thành phố Cần Thơ), mô hình trồng sen kết hợp nuôi cá của ông Trần Trung Hậu đã trở thành minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của tư duy này. 5 năm trước, khi thấy cây lúa không còn mang lại thu nhập ổn định do đất nhiễm phèn, nước ngập sâu, ông Hậu quyết định chuyển 20 công ruộng sang trồng sen. Mùa nước nổi, ông thả cá đồng trong ruộng sen, vừa tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên, vừa giảm sâu bệnh cho cây trồng. “Trồng sen nhẹ công, ít phải chăm sóc, mà khi nước rút lại có cá thu hoạch. Mỗi vụ lời hơn làm lúa nhiều lần” - ông Hậu cho biết.

Không chỉ riêng ở Phụng Hiệp, nhiều địa phương vùng trũng của Cần Thơ cũng đã chuyển hướng sang mô hình “lúa - cá”, “sen - cá” hay “lúa - ấu”. Việc thả cá trên ruộng không tốn nhiều chi phí vì cá có thể tận dụng thức ăn tự nhiên như lúa chét, rơm rạ, vi sinh vật. Nhiều nông dân cho biết, thả cá khỏe hơn làm ruộng nhiều. Vụ cá nào cũng kiếm lời mười mấy, hai chục triệu đồng, đỡ cực mà lại chắc ăn hơn. Theo thống kê của ngành nông nghiệp Cần Thơ, lợi nhuận của các hộ dân áp dụng mô hình “thuận thiên” tăng trung bình từ 10 - 30 triệu đồng/ha mỗi vụ, trong khi chi phí đầu vào giảm đáng kể. Môi trường đất được phục hồi nhờ giảm sử dụng hóa chất, đồng ruộng giữ được cân bằng sinh thái tự nhiên.

Nhiều mô hình “thuận thiên” khác cũng đang được nhân rộng ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long hay Cà Mau... - nơi người dân đã biết tận dụng quy luật “mặn lên thì nuôi tôm, nước ngọt thì trồng lúa”. Mô hình tôm - lúa giúp đất được nghỉ, nước được làm sạch và người dân có thêm nguồn thu gấp đôi so với trước. Khi vụ tôm kết thúc, lượng phù sa và chất hữu cơ còn lại từ vụ nuôi trở thành dinh dưỡng tự nhiên cho cây lúa, tạo ra một vòng tuần hoàn nông nghiệp sinh thái hoàn chỉnh.

Tại nhiều vùng khác, mô hình vườn - ao - chuồng - ruộng (VACR) được cải tiến theo hướng sinh thái, giúp giảm phát thải khí nhà kính và bảo tồn nguồn nước. Một số địa phương còn áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm, hệ thống cảnh báo mặn tự động, giúp nông dân chủ động hơn trong sản xuất. Đáng chú ý, nhiều sản phẩm “thuận thiên” đã đạt chứng nhận VietGAP và bước đầu tiếp cận thị trường xuất khẩu như khóm MD2, bưởi da xanh, mãng cầu xiêm, cá đồng... Nông sản sạch, an toàn, có nguồn gốc rõ ràng đang trở thành xu hướng tất yếu trong chiến lược phát triển nông nghiệp xanh của vùng.

Theo các chuyên gia, sản xuất “thuận thiên” không chỉ giúp nông dân giảm rủi ro, tăng thu nhập, mà còn góp phần giữ gìn hệ sinh thái tự nhiên, phục hồi độ phì nhiêu của đất, giảm ô nhiễm nguồn nước. Đây là nền tảng quan trọng để ĐBSCL phát triển bền vững trong bối cảnh BĐKH diễn biến ngày càng phức tạp. Hơn hết, “thuận thiên” không chỉ là giải pháp kinh tế, mà là một triết lý sống, nơi con người tôn trọng, thấu hiểu và cùng thiên nhiên phát triển. Những mô hình trồng sen, nuôi cá, trồng khóm hay luân canh tôm - lúa... chính là minh chứng cho sự đổi mới tư duy của người nông dân miền Tây hôm nay. Họ đã không còn là những người “chờ trời thương” mà là những người chủ động tìm hướng đi phù hợp với trời đất, biến thách thức thành cơ hội, để mảnh đất châu thổ tiếp tục là vùng trù phú, giàu đẹp, “bát cơm vàng” của cả nước.

Minh Anh

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/thich-ung-voi-bien-doi-khi-hau-de-phat-trien-ben-vung-post497330.html