Thiếu tướng Phạm Bân - tấm gương về một cán bộ quân sự cống hiến vẹn toàn cho cách mạng
'Cuộc đời của Thiếu tướng Phạm Bân là cuộc đời của một cán bộ quân sự gương mẫu 'có lệnh là đi, đi bất cứ nơi đâu' khi Tổ quốc cần, không nề hà gian khổ, hy sinh, lấy nhiệm vụ làm cái đích của đời mình, cống hiến vẹn toàn khả năng, sức lực cho cách mạng'.
Nhận xét ấy của Đại tướng Chu Huy Mân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, được đúc rút từ nhiều lần tiếp xúc, làm việc với Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Bân trong những năm tháng ác liệt ở chiến trường Khu 5. Đó không chỉ là đánh giá của một vị tướng dày dạn trận mạc đối với một cán bộ cấp dưới, mà còn là sự khái quát súc tích về cả một cuộc đời binh nghiệp gắn liền với gian khổ, hy sinh và tinh thần tận hiến trọn vẹn cho sự nghiệp cách mạng.
Từ quê hương Điện Bàn đến con đường cách mạng
Thiếu tướng Phạm Bân sinh ngày 5-1-1930 trong một gia đình đông con tại xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là phường Điện Bàn Đông, TP Đà Nẵng).
Những năm tháng thiếu niên của Phạm Bân gắn liền với phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ vai trò một đội viên đội du kích, ông sớm bộc lộ tinh thần dấn thân và ý chí kiên cường. Năm 1946, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn ác liệt, Phạm Bân nhập ngũ, trực tiếp tham gia nhiều trận đánh trên địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng. Đây chính là những trải nghiệm đầu tiên rèn giũa bản lĩnh người lính, hun đúc tinh thần chịu đựng gian khổ và ý chí không lùi bước trước thử thách.

Đồng chí Phạm Bân (thứ tư, từ trái sang) kiểm tra thực tế trên thao trường.
Tháng 5-1955, ông tập kết ra Bắc, bắt đầu giai đoạn công tác, học tập và rèn luyện trong môi trường Quân đội. Trên cương vị Đại đội trưởng rồi Tiểu đoàn trưởng công binh của Sư đoàn 324, Phạm Bân không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn. Sau đó, ông được cử đi học tại Trường Văn hóa Quân đội và Học viện Tăng - Thiết giáp Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Quá trình đào tạo bài bản này đã tạo nền tảng quan trọng để ông phát triển tư duy chỉ huy, nắm vững kỹ chiến thuật.
Cuối năm 1964, sau khi hoàn thành khóa học và trở về nước, Phạm Bân được điều động về công tác tại Binh chủng Tăng thiết giáp, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ từ Tiểu đoàn trưởng đến Trợ lý chiến thuật Phòng Tham mưu Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp. Đây là giai đoạn ông trực tiếp tham gia xây dựng, huấn luyện lực lượng xe tăng trong điều kiện đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày càng ác liệt.
Người chỉ huy nêu gương bằng hành động
Trong mắt đồng chí, đồng đội, thời gian công tác tại đơn vị tăng - thiết giáp đã khắc họa rõ nét hình ảnh Phạm Bân như một tấm gương sáng về lòng kiên định, nghị lực phi thường và tinh thần chịu đựng gian khổ. Năm 1965, trên cương vị Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 202 xe tăng, Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp, ông được giao nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo kíp xe tăng để chuẩn bị cho những nhiệm vụ chiến đấu lớn sắp tới.
Trong điều kiện huấn luyện khẩn trương, yêu cầu cao, trang bị, cơ sở vật chất thiếu thốn, Phạm Bân luôn trực tiếp bám sát bộ đội, vừa huấn luyện chuyên môn, vừa chú trọng rèn luyện ý chí, thể lực cho cán bộ, chiến sĩ. Với ông, huấn luyện không chỉ là truyền đạt kỹ thuật, chiến thuật, mà còn là quá trình tôi luyện bản lĩnh, ý chí, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh.

Đồng chí Phạm Bân cùng đoàn cán bộ Sư đoàn 2 ra thăm miền Bắc năm 1970, tại Hà Nội. Trong ảnh: Đồng chí Phạm Bân đứng hàng đầu, thứ nhất, từ trái sang.
Đầu năm 1966, sau khi khóa huấn luyện hoàn tất, đơn vị được lệnh tách ra thành lập tiểu đoàn mới, chuẩn bị hành quân vào Nam chiến đấu. Phạm Bân được điều làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 xe tăng, trực tiếp chỉ huy huấn luyện thể lực, hành quân đường dài, mang vác nặng, đồng thời huấn luyện kỹ - chiến thuật đặc công đánh chiếm căn cứ xe tăng - thiết giáp của địch, chuẩn bị cho chặng đường vượt Trường Sơn đầy gian nan. Ông nói với đồng đội: “Phải tiếp tục đi, đây là luyện tập, nhưng là luyện tập để hành quân vào Nam chiến đấu. Dù có bò cũng phải vào Nam chiến đấu...”
Ý chí, nghị lực và tinh thần nêu gương bằng hành động của người tiểu đoàn trưởng đã trở thành nguồn động viên to lớn, giúp toàn đơn vị biến quyết tâm thành hành động cụ thể, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng bước vào chiến trường ác liệt.
Dấu ấn cuộc đời binh nghiệp
Sau chiến thắng Tà Mây - Làng Vây năm 1968, chiến công đầu tiên của bộ đội Tăng thiết giáp, Phạm Bân cùng đoàn cán bộ gồm 11 người thuộc các Binh chủng Tăng thiết giáp, Cao xạ, Pháo binh, Đặc công, Hóa học được tăng cường vào chiến trường Quân khu 5. Sau gần một tháng ròng rã đi bộ vượt Trường Sơn, tháng 5-1968, ông cùng đồng đội đặt chân tới địa bàn Quân khu 5, mở đầu một chặng đường chiến đấu mới đầy gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang.
Tại chiến trường này, Phạm Bân lần lượt đảm nhiệm các cương vị quan trọng: Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 (Sư đoàn 2), Tham mưu phó Sư đoàn 711, Tham mưu trưởng Mặt trận Tiên Phước; Trung đoàn trưởng Trung đoàn 574 Tăng thiết giáp, Trưởng phòng Tăng thiết giáp Quân khu 5, trực tiếp tham gia chỉ huy chiến đấu, bám sát thực tiễn chiến trường, góp phần vào nhiều chiến công hiển hách của lực lượng vũ trang Quân khu 5. Với những đóng góp to lớn, xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tháng 10-2014, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong suốt cuộc đời binh nghiệp, Thiếu tướng Phạm Bân gắn bó lâu dài nhất và để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất khi công tác tại Trung đoàn 31.
Năm 1969, chiến trường Quân khu 5 trở nên đặc biệt ác liệt khi địch dốc sức thực hiện chiến dịch “bình định nông thôn”.

Đồng chí Phạm Bân cùng các đồng chí lãnh đạo địa phương và cán bộ chỉ huy các đơn vị trên công trình xây dựng kinh tế - quốc phòng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 5 chỉ đạo mở liên tiếp các đợt hoạt động quân sự, trong đó có Chiến dịch Hè 1969. Dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Phạm Bân, Trung đoàn 31 đã tổ chức nhiều trận đánh quan trọng tại Hiệp Đức, Liệt Kiểm, Sơn Cẩm Hà, giáng những đòn mạnh vào lực lượng ngụy. Ngày 13-5, Tiểu đoàn 9 (thiếu) của Trung đoàn tổ chức phục kích cánh quân Mỹ hành quân từ Dương Yên qua Phước An (Tiên Phước), tiêu diệt 110 tên địch, thu nhiều vũ khí, trang bị. Đây là thắng lợi có ý nghĩa lớn trong bối cảnh chiến trường vô cùng khó khăn, góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh chống hành quân, xúc dân, lập khu dồn của địch.
Bước vào Chiến dịch Thu (còn gọi là Chiến dịch TP), trong điều kiện hậu cần thiếu thốn, Trung đoàn trưởng Phạm Bân đã chỉ đạo tổ chức tăng gia sản xuất tại hậu cứ, tranh thủ thu hoạch hoa màu, trao đổi với đồng bào, đồng thời cử cán bộ luân phiên xuống vùng đồng bằng mua thêm lương thực, thực phẩm, bảo đảm bộ đội không bị đứt bữa. Nhờ đó, toàn Trung đoàn 31 hừng hực khí thế, liên tục cơ động chiến đấu. Trong các trận đánh, Trung đoàn đã tiêu diệt và làm thiệt hại nặng 11 đại đội Mỹ - ngụy, bắn rơi hàng chục máy bay, phá hủy 57 xe cơ giới và xe bọc thép, phá 19 khẩu pháo, bắt 72 tù binh, thu 285 khẩu súng các loại. Những chiến công đó góp đã phần giữ vững thế chiến trường, làm phá sản kế hoạch “giữ trong, quét ngoài” của địch.
Dưới sự chỉ huy của Phạm Bân, Trung đoàn 31 tiếp tục chiến đấu với khí thế mạnh mẽ, tham gia nhiều chiến dịch, góp phần giải phóng nhiều khu vực ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Các đòn tiến công trong giai đoạn 1971-1972 đã từng bước phá vỡ hệ thống kìm kẹp của địch, làm cho chiến dịch “bình định nông thôn” hoàn toàn thất bại.
Thượng tướng Nguyễn Chơn, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 trong giai đoạn chống Mỹ, đánh giá: Phạm Bân là con người có bản lĩnh chỉ huy kiên cường dũng cảm, chững chạc, luôn luôn suy nghĩ tìm tòi hướng dẫn chỉ huy cho đơn vị cách đánh và đánh thắng, đánh tiêu diệt địch với hiệu suất cao; là một cán bộ có tư duy, năng động sáng tạo, biết tìm mọi cách khắc phục khó khăn để vượt qua và lãnh đạo đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ của cấp trên giao; là một cán bộ quan tâm tới đồng đội sâu sắc, nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh cấp trên, chăm lo xây dựng đơn vị kể cả trong huấn luyện và công tác bảo đảm chính trị, hậu cần, kỹ thuật, góp phần xứng đáng vào truyền thống của Trung đoàn 31.
Hoàn thành vai trò Trung đoàn trưởng, bước sang Chiến dịch Hè 1972, Phạm Bân được cấp trên giao đảm nhiệm cương vị Tham mưu trưởng Mặt trận Tiên Phước. Sau khi trực tiếp trinh sát chiến trường, ông chỉ huy các đơn vị xây dựng quyết tâm tác chiến, tổ chức huấn luyện bổ sung, đặc biệt chú trọng hiệp đồng binh chủng, trong đó có lực lượng Tăng thiết giáp lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường Quảng Nam.
Đầu tháng 9-1972, trước tình thế địch phản công, Bộ tư lệnh Quân khu 5 ra lệnh cho hướng Tiên Phước nổ súng. Ngày 3-9, các đơn vị đồng loạt tiến công, lần lượt tiêu diệt Nỗng Phú, Dương Đoát và dùng hỏa lực đánh vào điểm cao 211. Ngày 5-9, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tham mưu trưởng Phạm Bân, mũi tiến công được tăng cường xe tăng K63, T85 thọc sâu từ hướng Phước Mỹ về Tiên Châu, tạo yếu tố bất ngờ, làm tan rã hệ thống phòng ngự của địch. Quân ta làm chủ toàn bộ các xã Phước Hòa, Phước Mỹ, Phước Kỳ, Phước Lộc, Phước An; chính quyền cách mạng được thành lập, đời sống nhân dân từng bước ổn định.
Trong thời gian giữ vững địa bàn giải phóng, dù địch điên cuồng sử dụng pháo và B52 đánh phá ác liệt, Phạm Bân vẫn bám sát đơn vị, chỉ đạo chặt chẽ cả chiến đấu và công tác hậu chiến, góp phần giữ vững thành quả trên chiến trường Quân khu 5.
Từ năm 1980-1986, Phạm Bân tiếp tục đảm nhiệm cương vị Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và tham gia Thường vụ Tỉnh ủy. Trong điều kiện hậu chiến vô cùng khó khăn, ông cùng tập thể lãnh đạo tỉnh trực tiếp gánh vác nhiệm vụ xây dựng quê hương. Một trong những dấu ấn nổi bật của giai đoạn này là chủ trương mở bốn tuyến đường lên các huyện miền núi, phục vụ phát triển kinh tế, đưa ánh sáng văn hóa đến vùng cao, vùng xa, góp phần xóa đói, giảm nghèo, đồng thời củng cố quốc phòng, an ninh.
Thời điểm đó, việc làm được 1km đường đã là thách thức lớn bởi đường cũ xuống cấp, sạt lở liên miên, vật liệu khan hiếm, kinh phí gần như không có. Nhận thức rõ mỗi con đường không chỉ là tuyến giao thông đơn thuần mà còn là huyết mạch kết nối miền xuôi với miền ngược, Phạm Bân đã trực tiếp nhận phần việc nặng nề nhất.
Trong những ngày mở đường gian khổ, không ít người cảm thấy mệt mỏi, muốn bỏ cuộc. Mỗi lúc như thế, ông nói: “Ngày chiến tranh ta phải làm một cách bí mật, làm cả ban ngày lẫn đêm, thiếu thốn nhiều bề, bệnh tật liên miên lại còn bị máy bay Mỹ thường xuyên oanh tạc liên hồi. Cái chết luôn rình rập trên đầu. Vậy mà ta còn xẻ dọc Trường Sơn, mở đường, làm cầu đưa cả dân tộc lên đường ra mặt trận. Nay hòa bình, độc lập rồi chúng ta cứ ung dung làm một cách hiên ngang. Sáng, trưa, chiều đều làm được. Làm ngày chưa đủ tranh thủ làm đêm. Chẳng lo sợ gì, sức ta có, người ta có, lẽ nào vài chục, một trăm km đường lại không làm nổi”. Chính những lời động viên kịp thời đó cùng hình ảnh người chỉ huy với bộ quân phục lấm bụi đỏ, mồ hôi thấm đẫm giữa công trường đã giúp các cán bộ, chiến sĩ vực lại tinh thần, vượt qua mệt mỏi, kiên trì bám trụ. Nhờ đó, những con đường lên miền núi dần hình thành, góp phần làm thay đổi diện mạo vùng cao.

Thiếu tướng Phạm Bân, nguyên Phó tư lệnh Mặt trận 579 (ngoài cùng, bên phải) cùng các đồng chí lãnh đạo Quân khu 5, tháng 12-1988. Ảnh tư liệu
Thiếu tướng Phạm Bân còn ghi dấu ấn với những đóng góp cho nhiệm vụ quốc tế. Từ năm 1978-1979, ông được phân công làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 307, làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Sau thời gian trở về nước đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, cuối năm 1986, ông trở lại Campuchia, giữ cương vị Phó tư lệnh Mặt trận 579 Quân khu 5 và Trưởng đoàn chuyên gia quân sự khu vực 1 Campuchia. Đến tháng 4-1990, ông trở về nước. Chỉ 1 tháng sau, ông được cử sang Cuba và làm Phó đoàn trưởng Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Tập đoàn quân miền Đông Cuba cho đến năm 1993. Ông nghỉ hưu năm 1994, mất năm 1995.
Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp của Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Bân là biểu tượng sinh động của nghị lực, bản lĩnh và tinh thần chịu đựng gian khổ của người cán bộ quân đội cách mạng. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp, ở bất cứ cương vị nào, ông cũng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, dấn thân không mệt mỏi vì nhiệm vụ và vì nhân dân.
Trong gần nửa thế kỷ phục vụ cách mạng, phục vụ Quân đội, Thiếu tướng Phạm Bân đã được Đảng và Nhà nước trao tặng:
- Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
- 2 Huân chương Quân công (hạng Nhì, Ba)
- 4 Huân chương Chiến công giải phóng (2 hạng Nhất, 2 hạng Nhì)
- 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì
- 1 Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
- 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba)
- 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng (hạng Nhất, Nhì, Ba)
- Huân chương Chiến thắng hạng Ba
- Huân chương Quân kỳ Quyết thắng
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng
Phần thưởng do Nhà nước Cộng hòa Campuchia trao tặng:
- Huân chương Angkor
- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc
Phần thưởng do Nhà nước và Bộ Các lực lượng vũ trang cách mạng Cuba trao tặng:
- Huy chương Tình bạn chiến đấu
- Huy chương Chiến sĩ quốc tế











