Thơ Nguyễn Nho Khiêm, tiếng thơ biếc xanh từ tâm hồn

Vào một ngày nắng gió vào đó, tại thị trấn Vĩnh Điện có một cậu bé cất tiếng khóc chào đời, sau này trở thành một nhà thơ. Điện Bàn quê anh là huyện của Quảng Nam giáp với Đà Nẵng, hết phần đất Ngũ Hành Sơn là đến Vĩnh Điện, Điện Bàn. Bây giờ con đường dài rộng, bốn làn xe nối hai vùng đất của Xứ Quảng xưa mang tên Võ Chí Công.

Chân dung nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm

Chân dung nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm

Thị trấn Vĩnh Điện, cố thổ của nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm cũng là nơi có biển. Từ lâu anh đã là công dân của thành phố Đà Nẵng - thành phố trực thuộc Trung ương, nơi “Núi trong lòng thành phố. Phố trong lòng biển khơi”, (Nguyễn Đình Thậm). Có lẽ vì điều này, biển trở thành đề tài ám ảnh trong thơ Nguyễn Nho Khiêm.

...
Cát vàng ôm níu bàn chân
Gót sen mỗi bước hoa dâng tím chiều
Chân trời hiện một chữ yêu
Biển ào ạt sóng núi liêu xiêu tình
(Buổi chiều ở bãi biển Mỹ Khê)

Yêu biển đến thế là cùng. Yêu biển đến lãng mạn, nhìn chân trời chỉ thấy chữ yêu thì chỉ có trong trái tim của một thi sỹ đa tình. Thường ở biển nói chung, biển Mỹ Khê nói riêng luôn có hoa muống biển nở tím ngắt. Loài hoa này gợi nhớ một tình yêu, chờ đợi khắc khoải mà vô vọng. “Gót son mỗi bước hoa dâng tím chiều”, vừa là hiện thực từ vẻ đẹp của biển Mỹ Khê, vừa là một hiện thực từ phía nhòe mờ, không phải ai cũng biết.

Trong Tiếng chim biếc xanh - tác phẩm thơ mới nhất của Nguyễn Nho Khiêm nổi bật là đề tài biển đả. Đó là “Em về tắm biển Tiên Sa”, “Trên đỉnh núi Sơn Trà”, “Buổi chiều ở bãi biển Mỹ Khê”, “Phía sau hàng dừa”, “Tắm biển”, “Biển mặn”, “Gạc Ma”, “Thăm Trường Sa”, “Thơ gửi đảo”, “Thơ tình Quy Nhơn”, “Thơ tình Quy Nhơn”- Bài 2, “Quê cát”, “Cảm xúc ở bãi đá san hô”, “Cửa Tùng”, “Mũi Cà Mau và em”. Nếu tách ra theo bố cục biển đảo, hẳn đủ sức đứng một phần trong tập thơ. Đây cũng là một tín chỉ thơ của Nguyễn Nho Khiêm.

Nguyễn Nho Khiêm là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện là Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT Đà Nẵng, kiêm Tổng biên tập Tạp chí Non Nước. Năm 1994, Nguyễn Nho Khiêm “trình làng” tập thơ Khói tỏa về trời; 30 năm sau ông giới thiệu Tiếng chim biếc xanh. Ba mươi năm xuất bản 6 tập thơ thì không phải nhiều. Không nhiều nhưng lắng đọng, nỗi niềm được chưng cất kỹ lưỡng.

Tiếng chim biếc xanh được Nguyễn Nho Khiêm bố cục thành 4 phần “Đêm Hội An”, (18 bài), “Khúc xuân phố biển”, (17 bài), “Biển xanh bóng núi”, (34 bài), “Chữ tri âm”, (28 bài). Dù phân chia như vậy, nhưng hiện diện trong tập thơ vẫn là một Nguyễn Nho Khiêm nặng lòng với đất và người Xứ Quảng, bao gồm cả Đà Nẵng nơi ông đang sống, làm việc và Quảng Nam, nơi ông sinh thành, mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn thơ, từ thuở thiếu thời.

Trước khi thành phường, bao quanh thị trấn Vĩnh Điện cũng là những cánh đồng, vời vợi cánh cò, cánh diều khoan thai no gió. “Môi thơm ấm điệu ca dao / Lưng trời mắt ấm lời chào cố hương”, (Khúc chiều xanh).

...
Làm sao biết ngày xưa nguyên quán
Ta cùng sinh một góc quê nhà
Ngày gặp em nghe chừng thương xưa lắm
Mỗi ánh nhìn ấm tia nắng phù sa
(Nguyên quán)

Có lẽ vì nâng niu “một góc quê nhà” nên trong Tiếng chim biếc xanh, nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm dành nhiều tình cảm cho Quảng Nam. Phần I của tập thơ có tên “Đêm ở Hội An” có đến 17 bài; và có 4 bài thơ viết về từng địa danh khác ở Quảng Nam: “Bài thơ Tây Giang”, “Bài thơ Tiên Phước”, “Đêm huyện Giằng”, “Những viên gạch Mỹ Sơn”.
...
Tạm biệt Tây Giang gặp những em bé da nâu
Gùi măng rừng bóng dài triền dốc
Những đứa bé tung tăng chân trần đi học
Giữa một miền rừng biếc núi mê ly
(Bài thơ Tây Giang)

...
Mai tạm biệt huyện Giằng
Tôi trở lại thành phố phồn hoa
Bạn gùi gạo trở về với bản
Tưởng chừng gần lắm lại rất xa
(Đêm huyện Giằng)

Tây Giang và Giằng (nay là huyện Nam Giang) là hai trong số các huyện miền núi, bà con dân tộc, đời sống còn nhiều khó khăn. Ở đấy, các cháu còn phải vào rừng tìm măng đắp đổi cuộc sống, chân trần đi học (Bài thơ ở Tây Giang); ở đấy bạn gùi gạo về bản, có thể “bạn” là thầy cô giáo cắm bản, khi đã gùi gạo có nghĩa là chưa có đường vào bản... còn rất nhiều khó khăn.

Đời sống hay nói cách khác hiện thực trong hai bài thơ có giá trị nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc sống còn nhiều bộ phận dân cư vất vả lắm, trẻ em còn hết sức thiệt thòi, chứ không phải tất cả đã yên tâm. Xóa đói giảm nghèo vì thế còn là nội dung không thể thiếu của chính sách an sinh xã hội; làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi còn là một nhiệm vụ thúc bách.

Bìa tập thơ Tiếng chim xanh biếc của Nguyễn Nho Khiêm

Bìa tập thơ Tiếng chim xanh biếc của Nguyễn Nho Khiêm

Cũng cần phải nói rằng, tiêu chí đầu tiên của một bài thơ hay chính là sự lay động sâu sắc trước cuộc sống chứ không phải là sự tinh khéo của thi pháp nghệ thuật. Nhà thơ trước hết phải là người biết chia sẻ, động lòng trắc ẩn. Từ không gian “phẳng”, bước vào thơ mới hy vọng tạo ra không gian đa chiều.

Hội An là một “bảo tàng” về lịch sử, kiến trúc và cư dân đô thị. Chính vì thế, Hội An trở thành Di sản văn hóa thế giới (được UNESCO công nhận từ năm 1999). Là thi sỹ đến Hội An chưa bật lên được cảm xúc mới là câu hỏi về tâm hồn. Với Nguyễn Nho Khiêm thì khác, dường như nhìn cái gì cũng anh cũng có thơ.

Hội An trong thơ Nguyễn Nho Khiêm có nhiều cung bậc. Anh làm thơ về ban mai, về đêm; kể cả các thành tố phi vật thể như lồng đèn, về hẻm phố, hoa đăng... kể cả những bức tường cũ, rêu phong.

“Chợt ly rượu trắng kề môi / Chợt nghe phố Hội mây trôi tình đầu / Nghe người kể chuyện bể dâu / Tôi ngồi chép lại một câu thơ tình”, (Mơ mộng Hội An). Cái “tôi” trữ tình và bản thể xác tín, cái đẹp của hiện thực lắng qua tâm hồn thành cái đẹp thi ca, nhà thơ chỉ ngồi “chép lại”.

Về thi pháp, Tiếng chim biếc xanh xác tín Nguyễn Nho Khiêm thuộc về thơ truyền thống. Trong tập có thơ tự do, ngũ ngôn, tứ tuyệt; nhưng phần lớn là lục bát. Ở thể loại lục bát trong Tiếng chim biếc xanh có đến 35 bài; chiếm hơn 36%.

Đây là một sự “mạo hiểm” của mọi nhà thơ, chứ không riêng Nguyễn Nho Khiêm bởi lục bát dễ làm nhưng khó hay. Một câu lục bát trong bài nếu dở sẽ “đánh đắm” cả bài thơ. Tất nhiên, không phải nhà thơ nào làm thơ lục bát cũng hy vọng cả bài hay, tứ thơ chặt chẽ.

Nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm (ngồi) và một số nhà thơ tham dự trại sáng tác văn học năm 2025 tại Đà Nẵng

Nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm (ngồi) và một số nhà thơ tham dự trại sáng tác văn học năm 2025 tại Đà Nẵng

Quả đúng vậy, từ ca dao, tục ngữ, thế hệ này truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm từ đời sống mà thành lục bát. Đỉnh cao của lục bát là Truyện Kiều. Có nhà nghiên cứu đã cho rằng “Lục bát là thể thơ anh minh”, bởi nó giữ được “bí quyết trường sinh”. Trường sinh đến đâu thì chưa biết, nhưng phải khẳng định lục bát còn tồn tại mãi trong tâm hồn người Việt, trở thành “gánh nặng” sáng tạo của các nhà thơ.

Với Nguyễn Nho Khiêm, lục bát tựa như hơi thở. “Xắn quần giữa phố gọi thơ / Bao lần đến vẫn bất ngờ Hội An / Mái rêu mưa đẹp bàng hoàng / Dòng sông bóng nước tiếng đàn ngân xưa”, (Mưa dâng). Bài thơ này Nguyễn Nho Khiêm sáng tác trong một lần đến Hội An mùa lũ “xăn quần giữa phố gọi thơ”. Mùa lũ Hội An vẫn hiện lên vẻ đẹp khác biệt.

“Thong dong giọt nước thiền mây / Mây thiền nắng mỏng mưa dày trong tôi”, (Thiền). Lục bát Nguyễn Nho Khiêm thường sử dụng trong những bài thơ trong sáng, thiện lương, và cũng không ít những thi ảnh có tính phát hiện.

Hình như Nguyễn Nho Khiêm thấm lục bát từ ngày còn trong bụng mẹ, từ khi ra đời được bà ru nôi. Chỉ có thể giải thích như thế, vì đọc Tiếng chim biếc xanh thấy anh làm thơ lục bát dễ như thò tay vào túi vậy. Từ chủ đề phức tạp như hư không (nothingness) đến sinh hoạt đời thường như ăn bát chè bắp Hội An, ăn tô phở Hà Nội.

Những bài thơ lục bát trong Tiếng chim biếc xanh là những “nét vẽ” kỳ ảo, tinh xảo góp phần hoàn thiện nên “chân dung tâm hồn” Nguyễn Nho Khiêm: đa cảm, giàu yêu thương, vừa đa mang vừa đa sự, chông chênh dễ buồn, dễ trống vắng.

Nguyễn Nho Khiêm luôn là một giọng thơ hồn hậu, vừa chân thành, vừa tinh tế trong cảm xúc, sử dụng ngôn từ, chiêm nghiệm.

Ngô Đức Hành

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/tho-nguyen-nho-khiem-tieng-tho-biec-xanh-tu-tam-hon-a29038.html