Thứ hạng các trường đại học Việt Nam trên bảng xếp hạng thế giới 2025
Qua việc tham gia các bảng xếp hạng uy tín, giáo dục đại học Việt Nam đã hiện diện rõ nét trên bản đồ thế giới.
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, tại bảng xếp hạng đại học thế giới QS 2025 (số liệu công bố 6/11/2024), Việt Nam có 6 trường đại học nằm trong danh sách, tăng một trường so với năm 2024. Trong khi đó tại bảng xếp hạng các trường đại học châu Á 2025, Việt Nam có 17 cơ sở đào tạo lọt top, tăng 2 trường so với năm 2024.
Việt Nam cũng xếp thứ 15 trên tổng số 25 nước châu Á được QS xếp hạng. Thứ hạng đại học Việt Nam trên bảng xếp hạng đại học châu Á QS như sau:


Đối với xếp hạng theo ngành học QS WUR2025, 9 trường đại học Việt Nam được xếp hạng ở 25 ngành học, trong đó 3 trường có các ngành được xếp hạng cao. Cụ thể, ngành Kỹ thuật dầu khí của Đại học Quốc gia TP.HCM; ngành Khách sạn và Giải trí của Đại học Duy Tân và ngành Nghệ thuật trình diễn của Đại học Văn Lang là những ngành học được xếp hạng trong top 100 thế giới.
Tại bảng xếp hạng đại học thế giới của Times Higher Education (THE) năm 2025, Việt Nam đạt thành tích nổi bật nhất từ trước đến nay với 9 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng.
Đáng chú ý, dù lần đầu tiên góp mặt nhưng Đại học Kinh tế TP.HCM đã có thứ hạng cao nhất, thuộc nhóm 501-600. Xếp sau đó là Đại học Duy Tân và Đại học Tôn Đức Thắng, cùng xếp hạng trong nhóm 601-800. Đây cũng là lần đầu tiên Đại học Y Hà Nội và Đại học Mở TP.HCM được xếp hạng, lần lượt nằm trong nhóm 801-1000 và 1201-1500.
Trong số 9 trường, 6 trường giữ nguyên thứ hạng so với năm trước, trong khi 3 trường còn lại là "gương mặt mới".

Theo Bộ GD&ĐT, qua việc tham gia các bảng xếp hạng uy tín, giáo dục đại học Việt Nam đã hiện diện rõ nét trên bản đồ thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, công tác xếp hạng giáo dục đại học của Việt Nam vẫn tồn tại một số hạn chế.
Về số lượng cơ sở được xếp hạng quốc tế còn ít so với tổng thể hệ thống, vị trí xếp hạng chủ yếu ở mức trung bình và thấp, chưa có nhiều trường nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới. Chất lượng nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế và trích dẫn tuy cải thiện nhưng chưa đồng đều giữa các trường, phụ thuộc nhiều vào một số đơn vị có thế mạnh.
Hoạt động hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ và gắn kết doanh nghiệp ở nhiều trường vẫn hạn chế, ảnh hưởng đến chỉ số đánh giá tổng thể. Ngoài ra, công tác quản trị đại học, đảm bảo chất lượng và nguồn lực đầu tư chưa thực sự đáp ứng yêu cầu khắt khe của các bảng xếp hạng, khiến khả năng cạnh tranh quốc tế của các trường đại học Việt Nam còn hạn chế.