Tiếp sức cho công nghiệp văn hóa Việt Nam

Công nghiệp văn hóa được xác định là con đường để biến kho tàng di sản, bản sắc văn hóa và trí tuệ sáng tạo của dân tộc Việt Nam thành sức mạnh mềm và sức mạnh kinh tế. Nhưng muốn biến tiềm lực thành thực lực, cần có những giải pháp để tháo gỡ những 'rào cản', tạo động lực cho công nghiệp văn hóa Việt Nam cất cánh.

Công nghiệp văn hóa là lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng cao, ít phụ thuộc vào tài nguyên hữu hạn.

Công nghiệp văn hóa là lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng cao, ít phụ thuộc vào tài nguyên hữu hạn.

Đánh thức kho báu văn hóa vô tận

Chia sẻ tại Tọa đàm trực tuyến “Công nghiệp văn hóa-Con đường mở kho báu vô tận của sáng tạo Việt Nam” diễn ra ngày 1/10, Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh, Chủ tịch Liên hiệp Khoa học Phát triển Du lịch bền vững (STDe) kiêm giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển Công nghiệp văn hóa Việt Nam (SDCI) cho biết: Việt Nam may mắn sở hữu một kho báu vô tận về văn hóa. Đó là sự đa dạng của 54 dân tộc anh em, là kho tàng văn học dân gian, âm nhạc, nghệ thuật, lễ hội; là những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO vinh danh như: Nhã nhạc cung đình Huế, Ca trù, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Nghệ thuật Xòe Thái… Đó còn là những biểu tượng đã ăn sâu vào tiềm thức như: nón lá, tà áo dài, bát phở, tách cà-phê…

Nếu biết tư duy sáng tạo để nhân chuỗi giá trị, liên kết ngành hàng, tổ chức sản xuất, biết ứng dụng công nghệ, tiếp thị bằng chiến lược sáng tạo, hoàn toàn có thể biến bản sắc Việt thành những sản phẩm, dịch vụ có giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh, lan tỏa toàn cầu. Và công nghiệp văn hóa chính là cây cầu kết nối giữa kho báu văn hóa với nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.

“Tọa đàm “Công nghiệp văn hóa-Con đường mở kho báu vô tận của sáng tạo Việt Nam” do SDCI (trực thuộc STDe) tổ chức là bước khởi đầu để cùng chung tay tìm đường mở kho báu ấy, để Việt Nam không chỉ được biết đến như một dải đất hình chữ S kiên cường, mà còn là một cường quốc sáng tạo, một điểm sáng văn hóa trên bản đồ toàn cầu”, Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh nhấn mạnh.

Trao đổi tại tọa đàm, nhiều chuyên gia đều đồng thuận cho rằng kho báu văn hóa Việt Nam chỉ thật sự tỏa sáng khi được đánh thức, gìn giữ và đầu tư đúng mức, để mỗi sản phẩm văn hóa Việt không chỉ là niềm tự hào, mà còn là dấu ấn mang thương hiệu Việt Nam. Song muốn làm được điều đó, còn cần đối diện và vượt qua nhiều khó khăn, thách thức.

 Tư duy sáng tạo có khả năng biến bản sắc Việt thành những sản phẩm, dịch vụ có giá trị kinh tế cao.

Tư duy sáng tạo có khả năng biến bản sắc Việt thành những sản phẩm, dịch vụ có giá trị kinh tế cao.

Theo Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Trần Thọ Đạt, nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Kinh tế quốc dân, chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã có nhưng nhiều chính sách vẫn chưa được luật hóa. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn yếu, gây rủi ro cho doanh nghiệp và giảm động lực sáng tạo. Nguồn nhân lực sáng tạo tại nước ta chưa bảo đảm chất lượng, đội ngũ lao động trẻ dồi dào nhưng lại thiếu kỹ năng trong thiết kế nội dung số, marketing sáng tạo, đào tạo chưa gắn kết với nhu cầu doanh nghiệp và thị trường.

“Bên cạnh đó là khó khăn về vốn và cơ chế tài chính: Sản phẩm sáng tạo khó định giá, tài sản trí tuệ chưa được công nhận là tài sản thế chấp, thiếu cơ chế ưu đãi thuế, vốn vay và quỹ đầu tư cho văn hóa. Trong khi đó, thị trường trong nước nhỏ và thiếu liên kết chuỗi giá trị: từ sáng tạo, sản xuất đến phân phối, quảng bá chưa đồng bộ, chưa tận dụng hiệu quả công nghệ số nên thua kém trong cạnh tranh quốc tế”, ông Trần Thọ Đạt cho hay.

Chia sẻ thêm về những thách thức trong phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam, ông Trương Minh Tiến, Chủ tịch Hiệp hội UNESCO thành phố Hà Nội cho rằng, nhận thức về tầm quan trọng của phát triển công nghiệp văn hóa ở các cấp, ngành, địa phương và dân cư chưa đồng đều, mới có một số tỉnh, thành phố triển khai đạt kết quả rõ nét như: Hà Nội; Thành phố Hồ Chí Minh; Đà Nẵng; Ninh Bình...

Ngoài ra, còn thiếu khung pháp lý đầy đủ và cơ chế, chính sách đồng bộ để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Thí dụ như: chính sách ưu đãi về đất đai (quy hoạch quỹ đất, tiền thuê và thời hạn thuê đất....); chính sách về tài chính (ưu đãi tín dụng, quỹ hỗ trợ sáng tạo công nghiệp văn hóa)…

Đây chính là những “điểm nghẽn” cần được khơi thông để công nghiệp văn hóa Việt Nam có những bước tiến dài và xa hơn trên bản đồ kinh tế sáng tạo toàn cầu.

Tạo động lực phát triển

Đóng góp giải pháp nhằm đưa công nghiệp văn hóa phát triển nhanh, bền vững, Tiến sĩ Đỗ Đình Đức, Nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Kiến trúc Hà Nội góp ý, trước hết, cần nâng cao nhận thức xã hội, tạo sự hiểu biết sâu sắc cho cộng đồng, nhà quản lý, nghệ sĩ, doanh nghiệp về nội hàm của công nghiệp văn hóa.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện khung pháp lý, như ban hành Luật Công nghiệp Văn hóa để có cơ chế pháp lý rõ ràng và đồng bộ; tạo môi trường thuận lợi để sản phẩm văn hóa chất lượng cao được sáng tạo và tiếp cận công chúng trong và ngoài nước; đầu tư xây dựng các trung tâm biểu diễn, trình diễn lớn; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sáng tạo sản phẩm công nghiệp văn hóa; tạo cơ chế khuyến khích nhà đầu tư mạnh dạn rót vốn vào công nghiệp văn hóa…

 Cần có chính sách để thu hút các nhà đầu tư phát triển công nghiệp văn hóa.

Cần có chính sách để thu hút các nhà đầu tư phát triển công nghiệp văn hóa.

Khẳng định vai trò quyết định của nguồn nhân lực sáng tạo đối với phát triển công nghiệp văn hóa, Tiến sĩ Lê Minh Khuê, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển Công nghiệp văn hóa Việt Nam nêu ý kiến, cần xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực công nghiệp văn hóa, thành lập mạng lưới các trung tâm đào tạo về công nghiệp văn hóa; đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế, phát triển hệ sinh thái sáng tạo; đầu tư vào đào tạo ngoại ngữ và kỹ năng số, có cơ chế đánh giá và công nhận kỹ năng sáng tạo, từ đó tạo ra nguồn nhân lực vừa có chuyên môn sâu, vừa am hiểu thị trường công nghiệp văn hóa.

Để công nghiệp văn hóa Việt Nam thật sự trở thành ngành kinh tế quan trọng giai đoạn 2025-2035, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Trần Thọ Đạt nêu ra 4 giải pháp ưu tiên, gồm: Hoàn thiện thể chế, sớm ban hành Luật Công nghiệp văn hóa và cơ chế tài chính đặc thù; Đột phá trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sáng tạo gắn với nhu cầu doanh nghiệp; Hình thành các trung tâm công nghiệp văn hóa, không gian sáng tạo, gắn với du lịch và thương hiệu quốc gia; Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ 4.0 để mở rộng thị trường toàn cầu.

Cũng tại tọa đàm, Trung tâm Nghiên cứu phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam và Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường đại học Xây dựng Hà Nội đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác trong các lĩnh vực: nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn nhân lực và tư vấn, chuyển giao các giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam giai đoạn 2025-2035, nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh và bền vững của ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam.

TRANG ANH

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/tiep-suc-cho-cong-nghiep-van-hoa-viet-nam-post912128.html