'Tốc độ tăng trưởng tín dụng đang cao hơn 1,3 - 1,5 lần tốc độ tăng trưởng huy động vốn'
Theo các chuyên gia, độ lệch giữa huy động và tín dụng đang tiếp tục nới rộng và đây là thách thức lớn nhất của hệ thống ngân hàng trong những tháng cuối năm và cả 2026 nếu muốn duy trì tốc độ tăng trưởng cao đồng thời giữ lãi suất ổn định.
Vào cuối tháng 7, lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã hạ về mức 3,1% sau khi liên tục neo cao trên ngưỡng 4% trong hầu hết tháng.
Theo đó, sau động thái bơm ròng mạnh mẽ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong tháng 6, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm đã giảm mạnh 3,4% so với cuối tháng 6 về mức 3,5% vào đầu tháng 7. Tuy nhiên, kể từ đó, lãi suất liên NH liên tục duy trì đà tăng và thậm chí đã chạm đỉnh 1 tháng tại mức 6,2% vào ngày 25/7, qua đó phát đi tín hiệu về thiếu hụt thanh khoản hệ thống bất chấp nỗ lực bơm ròng mạnh mẽ của NHNN.
Trong tháng, NHNN phát hành gần 45,8 nghìn tỷ đồng tín phiếu với lãi suất từ 3,4% - 3,5%, kỳ hạn 7 ngày, và đã ngừng phát hành tín phiếu kể từ ngày 17/7. Song song với đó, NHNN cũng tăng mạnh quy mô bơm vốn qua kênh OMO với trị giá lên đến hơn 426,4 nghìn tỷ đồng (tăng hơn 3 lần so với tháng trước) với lãi suất 4%, kỳ hạn 7 - 91 ngày. Ngoài ra, lượng vốn đáo hạn trên OMO và tín phiếu trong tháng lần lượt đạt 362,8 nghìn tỷ đồng và 68,3 nghìn tỷ đồng. Theo đó, NHNN đã bơm ròng gần 86,2 nghìn tỷ đồng trong tháng 7.
Nhờ vậy, đến cuối tháng, lãi suất qua đêm hạ nhiệt đáng kể về mức 3,1%. Trong khi đó, lãi suất cho các kỳ hạn từ một tuần đến một tháng dao động trong khoảng 3,7% - 4,6%.

Tín dụng tăng mạnh trong 7 tháng đầu năm...

...là nguyên nhân khiến lãi suất qua đêm liên ngân hàng nóng lên. Ảnh: MBS Research.
SGI Capital nhận định việc mặt bằng lãi suất có độ nhạy cao là lãi suất qua đêm liên ngân hàng và lợi suất trái phiếu chính phủ nóng dần lên xuất phát từ việc tín dụng tăng mạnh trong 7 tháng đầu năm. Tín dụng tăng nóng trong khi huy động chậm vì lãi suất kém hấp dẫn đang buộc một số ngân hàng phải tìm kiếm thanh khoản giá cao trên thị trường 2.
Với kế hoạch tăng trưởng kinh tế 8,3-8,5% cho năm nay, tín dụng sẽ cần tăng trưởng quanh 18-20%. Áp lực thanh khoản được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng trong các tháng cuối năm, bắt đầu tạo áp lực lên lãi suất huy động để đảm bảo nguồn vốn cho tín dụng.
"Độ lệch giữa huy động và tín dụng đang tiếp tục nới rộng và đây là thách thức lớn nhất của hệ thống ngân hàng trong những tháng cuối năm và cả 2026 nếu muốn duy trì tốc độ tăng trưởng cao đồng thời giữ lãi suất ổn định", báo cáo của SGI Capital nhận định.
Theo số liệu từ NHNN, tính đến ngày 29/7, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã tăng 9,8% so với cuối năm 2024 và tăng 19,8% svck. Tính toán của MBS Research cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng đang cao hơn khoảng 1,3 - 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng huy động vốn. Điều này đã phần nào gây áp lực tăng lên lãi suất huy động ở nhóm NHTM tư nhân nhằm thu hút tiền gửi.
Thực tế, sau khi giảm nhẹ trong tháng 6, mặt bằng lãi suất huy động cho thấy xu hướng tăng nhẹ trở lại trong tháng 7. Cụ thể, trong tháng, một số ngân hàng như TPB, VPB và EIB đã có động thái tăng nhẹ lãi suất huy động từ 0,1% - 0,2%/năm đối với các kỳ hạn 1 - 36 tháng.
Đến cuối tháng 7, trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của nhóm NHTM tư nhân đã tăng nhẹ 2 điểm cơ bản so với tháng trước lên mức 4,89% (-16 điểm cơ bản so với đầu năm), trong khi lãi suất của nhóm các NHTM quốc doanh vẫn giữ ổn định ở mức 4,7%.

Đến cuối tháng 7, trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của nhóm NHTM tư nhân đã tăng nhẹ 2 điểm cơ bản so với tháng trước lên mức 4,89%. Ảnh: MBS Research
Dự báo về diễn biến lãi suất huy động trong các tháng cuối năm, MBS Research đánh giá lãi suất tiền gửi nhiều khả năng vẫn sẽ chịu áp lực từ tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, đặc biệt sau thông báo của NHNN về việc tăng thêm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, cũng trong tháng 7 qua, NHNN đã tiếp tục phát đi yêu cầu về việc các tổ chức tín dụng triển khai đồng bộ các giải pháp để ổn định và phấn đấu giảm lãi suất huy động, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và tạo dư địa giảm lãi suất cho vay. Điều này, cùng với kỳ vọng về việc FED cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản trong nửa cuối năm 2025, sẽ giúp thu hẹp chênh lệch lãi suất VND-USD, qua đó tạo điều kiện để NHNN duy trì môi trường lãi suất thấp.
Theo đó, MBS Research dự báo lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các NHTM tư nhân sẽ có dư địa giảm nhẹ 2 điểm cơ bản về mức 4,7% vào cuối năm 2025.
Ở một góc nhìn khác, SGI Capital lưu ý rằng VND vẫn đang mất giá so với USD dù lãi suất liên ngân hàng dâng cao, USD-Index duy trì ở vùng thấp, và mức thuế đối ứng với hàng Việt Nam tích cực hơn các đối thủ cạnh tranh lớn.
Tương tự MBS Research, SGI Capital cũng nhận định việc FED sắp hạ lãi suất và USD-Index yếu đang là bệ đỡ ngắn hạn cho tỷ giá. Tuy nhiên xa hơn, các chuyên gia cho rằng mức độ mất giá của VND tiến gần tới mốc 4% có thể sẽ đặt NHNN vào tình thế phải chuyển đổi ưu tiên chính sách từ nới lỏng tiền tệ sang ổn định tỷ giá. Với mức dự trữ ngoại hối hiện nay, cho rằng bán USD can thiệp sẽ không phải là công cụ ưu tiên. Do đó, bất kỳ áp lực tỷ giá thêm từ nay tới cuối năm xảy ra có thể buộc NHNN sử dụng tới công cụ lãi suất và thu hẹp thanh khoản để ổn định VND.
"Trong một môi trường vĩ mô cân đối và lành mạnh, mức lãi suất cần được kiểm soát ở mức đủ hấp dẫn so với lạm phát để bảo vệ giá trị VND, thu hút ngoại tệ bổ sung cho dự trữ ngoại hối và tăng cường thanh khoản cho hệ thống.
Duy trì mặt bằng lãi suất quá thấp kéo dài sẽ dẫn tới tín dụng bùng nổ vượt quá khả năng huy động gây ảnh hưởng thanh khoản và tạo sức ép ngược lên lãi suất. Sẽ nguy hiểm hơn khi dòng tiền vay này đổ vào các kênh tài sản có tính đầu cơ, đẩy giá tài sản lên cao, gây lạm phát và phát sinh nợ xấu cho tương lai", báo cáo của SGI Capital lưu ý.