Trà Vinh chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo
Làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gần 80 năm qua, Đảng bộ tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm chăm lo xây dựng và phát triển sự nghiệp GD-ĐT và đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo (GD - ĐT) con người cho xã hội mới, cho dân tộc Việt Nam. Suốt cả cuộc đời mình, Người đã dành biết bao tâm trí cho sự nghiệp giáo dục. Bởi theo Người "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", "dốt thì dại, dại thì hèn". Chính vì vậy, Người luôn luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta phải chăm lo đến sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gần 80 năm qua, Đảng bộ tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm chăm lo xây dựng và phát triển sự nghiệp GD-ĐT và đã đạt được những thành tựu quan trọng.

Những lớp xóa mù chữ và bổ túc văn hóa được tổ chức trong vùng giải phóng. Ảnh tư liệu lưu trữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Trà Vinh
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới chính sách cai trị tàn bạo và ngu dân thâm độc của thực dân Pháp, chúng không quan tâm đến lĩnh vực GD-ĐT, hơn 90% người dân Việt Nam mù chữ. Ở Trà Vinh thời Pháp thuộc, chỉ có một trường tiểu học nam, nữ hỗn hợp (Ecole primaire comlémantaire de TraVinh) và một số trường hàng tổng. Từ đó, đại đa số người dân Trà Vinh sống trong trình trạng mù chữ.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ - ngày 03/9/1945 “chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, chính quyền cách mạng cùng Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc của tỉnh đã tuyên truyền, vận động Nhân dân tích cực tham gia phong trào "diệt giặc dốt". Các trường học được tu sửa và khẩn trương đưa vào hoạt động, các lớp bình dân học vụ được mở ra ở nhiều nơi, trong đó có nhiều lớp được mở ra tại tư gia, với sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân; nhiều vị hòa thượng, sư cả, ban quản trị cho mượn cho mượn cơ sở thờ tự để mở lớp học mà còn tham gia vận động tín đồ, con sóc, các sư đi dạy, đi học bình dân học vụ, có vị còn trực tiếp tổ chức, bảo trợ cho các lớp học; thầy, cô giáo các lớp bình dân phần lớn là thanh niên, học sinh giàu nhiệt huyết cách mạng, là các vị sư, à cha; đồng thời, thực hiện phương châm “Người biết chữ dạy người không biết chữ, người biết chữ nhiều, dạy người biết chữ ít”.
Phong trào “diệt giặc dốt” diễn ra sôi nổi, góp phần nâng cao dân trí và đào tạo cán bộ cho cách mạng. Nhiều đảng viên trước cách mạng không biết đọc, biết viết, sau khi tham gia các lớp học đã đọc thông, viết thạo. Bên cạnh việc dạy và học tiếng phổ thông, việc dạy và học bằng tiếng Khmer và tiếng Hoa cũng được tiến hành.
Năm 1947, tỉnh tổ chức Ty Giáo dục, có bộ phận biên soạn sách giáo khoa. Mở lớp tu nghiệp sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học và bình dân học vụ; phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển rộng rãi. Một trong những sáng kiến độc đáo của Đoàn Thanh niên Cứu quốc tỉnh Trà Vinh thời kỳ này là thành lập một tổ chức mang tên "Đàn Chim Việt".
Hoạt động của “Đàn Chim Việt” như một đội thông tin văn hóa, nghệ thuật lưu động (tập dượt và biểu diễn ca múa nhạc, phổ biến tin thời sự, tổ chức học tập văn hóa...), thu hút đông đảo Nhân dân tham gia sinh hoạt và ủng hộ kinh phí cho hoạt động của Đàn Chim Việt. Số thiếu niên gia nhập “Đàn Chim Việt” ngày càng nhiều. Trên cơ sở những kết quả và kinh nghiệm hoạt động của “Đàn Chim Việt”, Đoàn Thanh niên cứu quốc quyết định thành lập Trường Chim Việt và tổ chức chiêu sinh, thi tuyển, chọn được 140 em thiếu niên, tổ chức thành 3 lớp ở Khoán Tiều, Cồn Trứng (xã Trường Long Hòa, Cầu Ngang). Mỗi năm, các em tập trung học văn hóa từ 6 đến 9 tháng, còn 3 đến 6 tháng làm công tác lưu động tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện các chính sách kháng chiến, xây dựng đời sống văn hóa mới... Hoạt động của Trường Chim Việt có ý nghĩa cách mạng và thực tiễn, được Sở Giáo dục Nam Bộ, Ty Giáo dục Trà Vinh quan tâm chỉ đạo và giúp đỡ.
Năm 1949, Trường Chim Việt được chuyển thành Trường Bổ túc văn hóa Võ Thị Sáu để đào tạo, nâng cao trình độ học vấn cho đảng viên, cán bộ từ cấp cơ sở đến huyện ủy viên; việc tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa cho Ty Giáo dục đảm nhiệm. Tiếp đến, Trường Đỗ Văn Nại được thành lập, tổ chức chiêu sinh và khai giảng các lớp nhất, nhì dành cho các em thiếu niên. Qua hoạt động, Trường Chim Việt, Trường Bổ túc văn hóa Võ Thị Sáu và Trường Đỗ Văn Nại đã kịp thời đào tạo cho tỉnh nhiều cán bộ lãnh đạo và trí thức cách mạng phục vụ cho công cuộc kháng chiến của tỉnh.
Ngoài các trường, lớp do tỉnh tổ chức, thời gian này, Sở Giáo dục Nam Bộ còn tổ chức tại huyện Trà Cú lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, giáo viên bình dân học vụ, có 120 học viên của các tỉnh thuộc Khu 8 và Khu 9 dự học.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (7/1954 - 4/1975), Trà Vinh là một trong những chiến trường ác liệt ở Nam Bộ. Trong điều kiện có nhiều khó khăn, nhưng thực hiện theo lời dạy của Bác Hồ, Đảng bộ và Nhân dân Trà Vinh vẫn quan tâm phát triển sự nghiệp GD-ĐT trong vùng giải phóng và ở một số vùng tranh chấp. Trên cơ sở Thông tri số 44/TT, ngày 03/02/1963 Tiểu ban Giáo dục Trung ương Cục miền Nam, Tỉnh ủy thành lập Tiểu ban Giáo dục trực thuộc Ban Tuyên huấn tỉnh và thành lập các khung trường. Một số thanh niên có trình độ văn hóa ở các ban, ngành được điều động về Tiểu ban Giáo dục và đưa đi học Trường Sư phạm Tây Nam Bộ và các lớp sư phạm do Tiểu ban Giáo dục tỉnh tổ chức. Bên cạnh đó, từ năm 1964, một số cán bộ tập kết ra Bắc có trình độ đại học và giáo viên miền Bắc được Trung ương điều động về miền Nam công tác,... đã góp phần tăng thêm đội ngũ cán bộ cho Tiểu ban giáo dục và giáo viên cho các trường, lớp trong vùng giải phóng.
Được sự chỉ đạo trực tiếp là Tiểu ban Giáo dục và được sự hỗ trợ của Nhân dân, cấp ủy và Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng các địa phương đã mở trường, lớp mẫu giáo, phổ thông, xóa mù chữ, bổ túc văn hóa; đồng thời tích cực tuyên truyền, vận động người dân tham gia các lớp xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, trẻ em đi học mẫu giáo, học phổ thông. Đặc biệt, các cấp ủy yêu cầu cán bộ, đảng viên trình độ văn hóa còn thấp phải tham gia học bổ túc văn hóa, để có thể đọc tài liệu, viết kế hoạch, nghị quyết... tạo ra một sinh khí mới ở vùng giải phóng.
Với khẩu hiệu: “Dân bám đất, giáo dục bám dân, giáo viên bám trường, lớp”, một số địa phương linh hoạt phân tán nhuyễn trường lớp, hình thức tổ chức lớp cũng đa dạng: nơi nào lớp học ở địa bàn kín đáo thì đều có hầm, hào chắc chắn; nơi nào lớp học đặt trong nhà dân, nếu yên thì học, động (địch càn, bắn pháo…) thì nghỉ. Ở huyện Cầu Ngang, cấp ủy và Mặt trận cho cất trường lớp, sử dụng người biết chữ dạy cho người biết chữ. Ở Cầu Kè, trong vùng giải phóng cấp ủy, Mặt trận cho xây dựng trường, lớp, đảm bảo cho con em của Nhân dân có trường lớp học, tổ chức các lớp xóa mù và học bình dân cho người lớn tuổi. Ở Càng Long, ấp nào trong vùng giải phóng cũng có trường, lớp bằng tre lá cho học sinh đến học và cho công tác xóa mù chữ. Ở Duyên Hải, cán bộ và Nhân dân có sáng kiến đã làm “nhà âm” trong các động cát để tổ chức lớp; có nơi học ban đêm, có nơi học ban ngày… tất cả học sinh và thầy, cô giáo cùng tham gia bảo vệ trường lớp, bảo vệ tài liệu, sách giáo khoa. Cán bộ, giáo viên đã dựa vào Nhân dân để xây dựng và bảo vệ trường lớp. Giáo dục của tỉnh trong giai đoạn này phải đấu tranh hết sức ác liệt, chịu đựng không ít hy sinh để bảo vệ, củng cố, duy trì phong trào; có giáo viên, cán bộ giáo dục tỉnh, huyện cũng phải cầm súng trực tiếp cùng lực lượng vũ trang tham gia chiến đấu chống địch càn quét. Các trường, lớp ở vùng giải phóng được duy trì đến ngày toàn thắng - 30/4/1975.
Trong vùng địch kiểm soát trước 30/4/1975, giáo dục mầm non chưa được tổ chức có hệ thống, chỉ tập trung ở vài địa điểm tại thị xã; cấp tiểu học có 230 trường, với hơn 55.000 học sinh; cấp trung học có 12 trường với số lượng học sinh chưa đến 10.000 học sinh. Số người đi học chỉ chiếm khoảng gần 15% dân số; phần lớn con em người dân ở vùng nông thôn không có điều kiện đến trường.
Sau ngày 30/4/1975, thực hiện Chỉ thị số 221-CT/TW, ngày 17/6/1975 của Ban Bí thư “về công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng”, Ủy ban quân quản tỉnh, huyện đã tiếp quản hệ thống giáo dục cũ, công lập hóa toàn bộ trường tư; tiến hành mở lớp bồi dưỡng chính trị về lập trường, quan điểm và nghiệp vụ cho số giáo viên chế độ cũ được lưu dụng; tổ chức đào tạo giáo viên cấp tốc; đồng thời tiếp nhận số giáo viên được điều động từ miền Bắc vào tăng cường cho ngành giáo dục của tỉnh; thay sách giáo khoa mới; đầu tư xây dựng trường, lớp ở những nơi không có trường lớp; đẩy mạnh công tác xóa mù chữ và bổ túc văn hóa; phát động phong trào quần chúng tham gia sự nghiệp GD-ĐT.
Trong giai đoạn chung tỉnh Cửu Long, sự nghiệp GD-ĐT đã đạt được một số kết quả ban đầu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Vì vậy, khi tái lập tỉnh (5/1992), mặt bằng dân trí của tỉnh Trà Vinh còn thấp; quy mô trường lớp nhỏ; tỷ lệ huy động học sinh đến trường còn ít; tỷ lệ học sinh cấp II, cấp III bỏ học cao; đội ngũ giáo viên thiếu và không đồng bộ; cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu tối thiểu của việc dạy và học, nhiều nơi phải học 3-4 ca; chất lượng giáo dục thấp.
Thực hiện lời dạy của Bác: “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người” và “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”, quán triệt quan điểm của Đảng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”, 33 năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, được đồng tình và hỗ trợ của Nhân dân, cùng với tinh thần nỗ lực phấn đấu của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, sự nghiệp GD-ĐT của tỉnh đã đạt những thành tựu quan trọng:
Quy mô GD-ĐT không ngừng được mở rộng; mạng lưới trường lớp được xây dựng rộng khắp; các hình thức GD-ĐT được đa dạng hóa; cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư, nâng cấp. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng tăng về số lượng và nâng dần về chất lượng; mặt bằng dân trí được nâng lên rõ rệt. Hệ thống giáo dục mầm non và phổ thông phát triển khá vững chắc; chất lượng giáo dục phổ thông có những chuyển biến tích cực. Tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách để phát triển GD-ĐT trên địa bàn tỉnh; trong đó có nhiều chính sách đã phát huy tác dụng tích cực như: đầu tư cơ sở vật chất, xóa phòng học tre lá tạm; phổ cập giáo dục – xóa mù chữ; phát triển hệ thống trường Phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT).

Giờ thể dục tại Trường Dân tộc nội trú THCS - THPT huyện Tiểu Cần. Ảnh: BÁ THI
Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phát triển quy mô, mạng lưới trường lớp: năm học 1992 - 1993, chỉ có 250 cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông với hơn 125.000 học sinh, trong đó chỉ có 56 trường phổ thông trung học (PTTH), số trường kiên cố không đáng kể. Đến năm học 2024 - 2025, quy mô mạng lưới trường, lớp học phát triển rộng khắp, toàn ngành có 431 cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông với 214.461 học sinh, đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong tỉnh và từng bước đa dạng hóa về loại hình trường lớp. Đã xóa phòng học tre lá tạm, giảm phòng học bán kiên cố, nâng tỷ lệ phòng học kiên cố của các cấp học đạt 90,12%, toàn tỉnh có 143 trường chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 35,3%.
Khi tái lập, tỉnh không có hệ thống trường đào tạo. Đến nay, tỉnh có 01 trường đại học, 02 trường cao đẳng; 104 xã, phường, thị trấn đều có trung tâm học tập cộng đồng. Trường Đại học Trà Vinh nằm trong Top 200 trường đại học xanh, Top 100 trường đại học có ảnh hưởng và đóng góp tích cực cho xã hội, với chương trình đào tạo thiết kế theo hướng đa ngành, đa nghề, góp phần đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh, khu vực và cả nước. Vị trí, quy mô, chức năng của mạng lưới đại học, cao đẳng, trung cấp cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp; cung cấp nguồn nhân lực trực tiếp cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục; đa dạng hóa các loại hình học tập, phát triển các trường ngoài công lập, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Đến nay, có 14 cơ sở giáo dục ngoài công lập,..
Phổ cập giáo dục, xóa mù chữ đạt được những kết quả vững chắc, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường tăng cao: sau ngày tái lập tỉnh, tỷ lệ người mù chữ cao, toàn tỉnh có hơn 20.000 người mù chữ trong độ tuổi từ 15 - 35; tỷ lệ huy động học sinh vào các trường thấp, tỷ lệ bỏ học chung các cấp hơn 6,5%, tỷ lệ tốt nghiệp thấp. Tỉnh đã tập trung thực hiện công tác phổ cập giáo dục - xóa mù chữ. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đi học đến trường ngày càng tăng. Năm học 1992 - 1993, trong 05 người dân mới có 01 người đi học, đến nay đã có 5,72% trẻ đến nhà trẻ, 84,76 % trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo (trong đó trẻ 5 tuổi được học mẫu giáo gần 100%), trẻ trong độ tuổi đi học tiểu học đạt 99,9%, học sinh THCS đạt 98,61% và 80% học sinh trong độ tuổi đi học THPT. Tháng 12/1998, tỉnh được công nhận đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ; năm 2006 hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Năm 2007 hoàn thành phổ cập giáo dục THCS, năm 2015 tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi. Đến nay, tỉnh Trà Vinh đã duy trì vững chắc kết quả đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học (mức độ 3), phổ cập giáo dục THCS (mức độ 2) và xóa mù chữ (mức độ 2); phổ cập giáo dục trung học có 102 xã đạt chuẩn. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đạt nhiều kết quả tích cực.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục được tăng cường về số lượng, chuẩn hóa về trình độ, đảm bảo yêu cầu của việc dạy học và tổ chức các hoạt động giáo dục. So với ngày đầu tái lập tỉnh chỉ có khoảng 5.500 cán bộ, giáo viên thì đến nay, toàn ngành hiện có 14.172 người, trong đó gồm: 2.073 giáo viên mầm non, 9.698 giáo viên phổ thông, 1.447 nhân viên và 954 cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng nâng chuẩn từ 9+3,12+2, CĐSP… đến nay hầu hết trình độ đại học, đạt chuẩn ở tất cả các cấp học, bậc học. Thực hiện Luật Giáo dục 2019, tổng số cán bộ quản lý, giáo viên mầm non và phổ thông trên chuẩn đạt tỷ lệ 18,22% (trong đó giáo viên mầm non trên chuẩn chiếm tỷ lệ 87,07%, giáo viên phổ thông trên chuẩn 4,84%. Riêng giáo viên THPT tỷ lệ trên chuẩn 25,77%).
Khi mới tái lập, tỉnh chỉ có 01 trường PTDTNT với hơn 100 học sinh, hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn. Đến nay, có 08 trường PTDTNT (trong đó có: 05 trường cấp THCS, 02 trường cấp THCS-THPT và 01 trường cấp THPT) với 2.730 học sinh(trong đó cấp THCS 1.902 học sinh, cấp THPT 828 học sinh). Duy trì tốt việc dạy - học tiếng Khmer ở những vùng có đông đồng bào dân tộc, với hơn 120 cơ sở giáo dục tổ chức dạy, có trên 20.000 học sinh tham gia.
Chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả GD-ĐT. Việc ứng dụng công nghệ thông tin đã hỗ trợ tích cực trong công tác quản lý và tổ chức các hoạt động dạy học. Chất lượng giáo dục toàn diện từng bước được nâng lên, đã tạo được nền tảng căn bản cho giáo dục mũi nhọn và giáo dục chất lượng cao. Giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng sống cho học sinh được quan tâm. Chất lượng giáo dục toàn diện tiếp tục được giữ vững, phát triển, kỳ thi tốt nghiệp THPT hằng năm, tỷ lệ tốt nghiệp học sinh tỉnh Trà Vinh ngang bằng hoặc có năm cao hơn tỷ lệ học sinh tốt nghiệp chung của toàn quốc. 30 năm qua, đã có hàng chục ngàn em đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh ở cả 03 cấp: tiểu học, THCS và THPT.
Với những thành tích đã được ghi nhận, đã có 36 nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú; hàng ngàn lượt tập thể và cá nhân cán bộ quản lý, giáo viên đã được tặng thưởng Huân chương Lao động, Cờ thi đua, Bằng khen và nhiều danh hiệu thi đua cao quý khác của Bộ GD-ĐT và của tỉnh.
Gần 80 năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo Trà Vinh đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Những thành quả ấy, bắt nguồn từ việc Đảng bộ và Nhân dân Trà Vinh đã quán triệt và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện cho sự nghiệp GD-ĐT phát triển.
Trong chặng đường phía trước với nhiều thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, với yêu cầu, nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu mới, Đảng bộ và Nhân dân Trà Vinh, đặc biệt là đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý ngành GD-ĐT sẽ tiếp tục nỗ lực phấn đấu đoàn kết, sáng tạo; không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức nghề nghiệp; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tận tâm, tận lực và hoàn thành tốt nhiệm vụ “dạy chữ, dạy người, nâng cao dân trí đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, đào tạo nên nhiều thế hệ vừa hồng vừa chuyên, góp phần xây dựng quê hương Trà Vinh ngày càng giàu đẹp, văn minh.