Trách nhiệm pháp lý đối với người đứng đầu cố tình 'cát cứ dữ liệu'
Ngày 28/11 Quốc hội thảo luận ở hội trường về: Dự án Luật Quy hoạch (sửa đổi); Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo Đại biểu Phạm Trọng Nhân (Đoàn TP Hồ Chí Minh), Quốc hội cần chuyển từ giám sát 'đúng quy trình' sang giám sát 'giá trị sinh ra từ quy hoạch' qua cơ chế báo cáo hậu kiểm 3 năm/lần trên nền tảng dữ liệu số; công bố 'bản đồ xung đột quy hoạch quốc gia'.

Ông Phạm Trọng Nhân phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)
Đại biểu Phạm Trọng Nhân (Đoàn TP Hồ Chí Minh) cho rằng hai nội dung: dự Luật Quy hoạch (sửa đổi) và điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 đều là những dự án luật cực rộng, cực khó, tác động đến mô hình phát triển trong nhiều thập kỷ.
Ông Nhân dành thời gian phát biểu để tập trung vào những điểm nghẽn có tính lịch sử, quyết định khả năng tạo động lực tăng trưởng mới, đặc biệt trong bối cảnh đất nước chuyển sang mô hình 34 tỉnh - chính quyền 2 cấp, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và yêu cầu thoát bẫy thu nhập trung bình ngày càng cấp thiết. Luật Quy hoạch và Quy hoạch tổng thể quốc gia như một hệ điều hành dữ liệu, chứ không chỉ là các bản vẽ kỹ thuật.
Theo ông Nhân, Việt Nam đã bước vào thời kỳ quản trị dựa trên dữ liệu, với kinh tế số chiếm gần 19% GDP năm 2024, và tăng trên 20%/năm - nhanh gấp ba lần GDP, thuộc nhóm nhanh nhất ASEAN. Cùng lúc đó, Chính phủ đang trình các luật về dữ liệu, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, trung tâm dữ liệu, kinh tế xanh, với kỳ vọng tạo ra động lực tăng trưởng mới. Tuy nhiên, tốc độ điều chỉnh quy hoạch hiện nay vẫn mang tính tuyến tính, mất từ 12 đến 18 tháng, không theo kịp làn sóng mới như bán dẫn, trung tâm dữ liệu, năng lượng sạch - hydro, đổi mới sáng tạo, logistics và tài chính quốc tế. Và những cơ hội này không thể chờ quy trình. Luật Quy hoạch lần này phải thực sự mở đường cho những động lực mới đó, chứ không thể là một “cái khung cứng” khiến mọi cơ hội bị chậm lại.
Vì vậy, với Điều 54 về điều chỉnh quy hoạch, ông Nhân đề nghị bổ sung “cơ hội phát triển cấp quốc gia, có tác động lan tỏa và yêu cầu triển khai gấp” làm căn cứ điều chỉnh quy hoạch bên cạnh các căn cứ truyền thống như thiên tai, biến động, sáp nhập địa giới. Giao Chính phủ định lượng rõ ngưỡng cơ hội: quy mô vốn, hàm lượng công nghệ, tác động tới năng suất, việc làm chất lượng cao, kết nối chuỗi cung ứng. Với những dự án đạt ngưỡng đó, cho phép rút tối thiểu 50% thời gian thẩm định, thời hạn tối đa 6 tháng.
“Tôi đề nghị tốc độ phải trở thành một chỉ tiêu thiết kế ngay trong Luật Quy hoạch, nếu chúng ta thật sự muốn các trung tâm dữ liệu, bán dẫn, đổi mới sáng tạo, hay tài chính quốc tế trở thành động cơ kéo tăng trưởng hai con số, chứ không thể là kỳ vọng những thủ tục nhiêu khê trên giấy”, ông Nhân nói.
Phân tích thêm, ông Nhân đánh giá khi chúng ta quyết định giảm từ 63 xuống 34 tỉnh, tổ chức lại chính quyền theo mô hình 2 cấp đó không chỉ là việc kẻ lại đường ranh hành chính, mà là cơ hội thiết kế lại không gian phát triển. Trong bối cảnh ấy, Quy hoạch tổng thể quốc gia không thể chỉ điều chỉnh cho khớp bản đồ mới, mà phải trả lời được câu hỏi: những cực tăng trưởng nào sẽ kéo cả nền kinh tế lên mức hai con số, và Luật Quy hoạch đặt nó vào vị trí nào trong cấu trúc quốc gia?
Do đó, đối với Quy hoạch tổng thể quốc gia và Luật Quy hoạch, ông Nhân đề xuất 3 vấn đề. Theo đó, một là luật hóa khái niệm “trung tâm tăng trưởng vùng”. Khi chúng ta quyết định giảm từ 63 xuống 34 tỉnh, thành phố đây thực chất là bản đồ năng suất, không phải bản đồ địa giới. Tiêu chí không thể dựa vào địa giới hành chính, mà phải dựa trên năng lực công nghiệp - dịch vụ hàm lượng công nghệ, kết nối hạ tầng - logistics, mật độ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tỷ trọng kinh tế số và năng suất lao động.
Hai là, thiết chế Hội đồng Điều phối vùng quốc gia phải được luật hóa trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có quyền điều phối hạ tầng vùng, chia sẻ và bắt buộc dùng chung dữ liệu, thống nhất danh mục ưu tiên đầu tư vùng để tránh tình trạng 5 tỉnh cùng xin làm cảng trung chuyển, sân bay quốc tế mà không dựa trên mô hình năng suất và hiệu quả vùng. Ba là, việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia phải ăn khớp với mô hình 34 tỉnh, thành và 2 cấp chính quyền, nghĩa là các tỉnh mới sau sáp nhập phải được thiết kế lại cấu trúc đô thị - nông thôn - công nghiệp - dịch vụ dựa trên dữ liệu dân cư, năng suất, rủi ro khí hậu; không thể chỉ “ghép hai quy hoạch cũ lại với nhau” và xem như hoàn thành, như vùng TP Hồ Chí Minh rất cần quy hoạch và 1 cơ chế cho 1 siêu đô thị động lực trung tâm. Quy hoạch tổng thể quốc gia không phải bản đồ địa lý, mà là bản đồ năng suất của quốc gia. Nếu không thay đổi cách nhìn này, việc nói về mục tiêu tăng trưởng hai con số và thoát bẫy thu nhập trung bình sẽ rất khó thuyết phục.
Các nghiên cứu quốc tế đều chỉ ra thoát bẫy thu nhập trung bình không thể dựa vào việc tăng thêm vốn và lao động, mà phải dựa vào năng suất, tri thức và chất lượng thể chế. Điều này khiến tích hợp quy hoạch chỉ đạt trên giấy, không đạt trong thuật toán, trong khi chính thuật toán mới giúp chúng ta phát hiện xung đột quy hoạch, tối ưu sử dụng đất, tối ưu đầu tư công, và qua đó nâng năng suất và chất lượng tăng trưởng. Vì vậy, đề nghị Luật Quy hoạch phải quy định ở cấp độ “hệ điều hành quốc gia” ba nhóm chuẩn dữ liệu: chuẩn không gian một hệ quy chiếu quốc gia, một bản đồ nền thống nhất; chuẩn thuộc tính định nghĩa thống nhất về các loại đất, các chỉ tiêu môi trường, kết cấu hạ tầng, năng lực sản xuất; chuẩn kết nối bắt buộc mọi bộ, ngành, địa phương phải chia sẻ dữ liệu quy hoạch qua API quốc gia. Đồng thời, phải có trách nhiệm pháp lý rất rõ với người đứng đầu nếu không cập nhật dữ liệu, hoặc cố tình “cát cứ dữ liệu”.
Cùng với đó, Quốc hội cần chuyển từ giám sát “đúng quy trình” sang giám sát “giá trị sinh ra từ quy hoạch” qua cơ chế báo cáo hậu kiểm 3 năm/lần trên nền tảng dữ liệu số; công bố “bản đồ xung đột quy hoạch quốc gia”.













