Tranh cắt giấy - di sản tâm linh của dân tộc Nùng Dín nơi biên giới Lào Cai

Đồng bào Nùng Dín ở tỉnh Lào Cai có một loại hình nghệ thuật dân gian tồn tại qua nhiều thế hệ, gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh cộng đồng, đó là nghệ thuật tranh cắt giấy (tiếng Nùng Dín gọi là Chàng slaw). Không chỉ là một nghề thủ công truyền thống, tranh cắt giấy còn hàm chứa quan niệm nhân sinh, đạo hiếu và thế giới quan độc đáo, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa các dân tộc vùng biên giới.

Tranh cắt giấy vẫn âm thầm kể câu chuyện về lòng hiếu thảo của người Nùng Dín. Ảnh: Lê Thủy

Tranh cắt giấy vẫn âm thầm kể câu chuyện về lòng hiếu thảo của người Nùng Dín. Ảnh: Lê Thủy

Bộ tranh giấy hay biểu tượng của lòng hiếu thảo

Trong đời sống của người Nùng Dín ở các xã miền núi, biên giới như Bản Lầu, Mường Khương và một số địa phương khác của tỉnh Lào Cai, tranh cắt giấy giữ một vị trí đặc biệt. Không xuất hiện trong sinh hoạt thường nhật hay các lễ hội vui tươi, nghệ thuật tranh cắt giấy chủ yếu được làm và sử dụng trong tang lễ, một nghi thức quan trọng bậc nhất của mỗi gia đình, dòng họ.

Từ bao đời nay, đồng bào Nùng Dín quan niệm rằng, con người khi qua đời không phải là sự kết thúc, mà là sự chuyển dịch sang một thế giới khác, nơi người chết vẫn tiếp tục “sống”, sinh hoạt như ở trần gian. Bởi vậy, trách nhiệm của con cháu là chuẩn bị cho người quá cố một cuộc sống đủ đầy, tươm tất nơi cõi âm. Tranh cắt giấy, với hình ảnh nhà táng, cây tiền, ngựa giấy... chính là những lễ vật tượng trưng, gửi gắm ước mong ấy. Theo các nghệ nhân cao tuổi, không ai biết chính xác nghề làm tranh cắt giấy của người Nùng Dín xuất hiện từ khi nào. Chỉ biết rằng, từ rất lâu đời, nghệ thuật tranh cắt giấy đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng. Mỗi đám tang không có tranh cắt giấy được coi là chưa trọn đạo hiếu, chưa làm tròn bổn phận với tổ tiên.

Bộ tranh cắt giấy truyền thống của người Nùng Dín cơ bản gồm 5 loại chính, gồm: nhà táng, cây tiền, con ngựa và hai loại chỉ vần (chỉ vần ngồi, chỉ vần đứng), có ý nghĩa tương tự như những bức trướng của người Kinh ngày nay. Trong đó, nhà táng được xem là lễ vật quan trọng và công phu nhất, đòi hỏi kỹ thuật cao cũng như sự tỉ mỉ của người nghệ nhân. Ông Vàng Thung Chúng, nghệ nhân người Nùng Dín ở thôn Tùng Lâu, xã Mường Khương cho biết, nhà táng là biểu trưng cho ngôi nhà lầu khang trang, nơi người quá cố sẽ sinh sống ở thế giới bên kia. “Sau khi các cụ qua đời, gia đình phải chọn ngày, chọn giờ, mời thợ về làm nhà táng. Làm xong nhà táng mới bắt đầu làm đám ma. Người ta làm các thủ tục mua bán, coi như mua ngôi nhà ấy từ ông thợ, rồi làm lễ nộp cho tổ tiên. Cuối cùng mang ra mộ đốt để người quá cố nhận được” - ông Chúng chia sẻ.

Ẩn sau những nghi thức ấy là một hệ giá trị nhân văn sâu sắc, là sự tri ân, lòng hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ, ông bà; đồng thời phản ánh ước mơ về một cuộc sống sung túc, đủ đầy..., điều mà khi còn sống, không phải ai cũng có điều kiện đạt được.

Kiệt tác của giấy và trí tuệ dân gian

Để làm được một nhà táng hoàn chỉnh, người thợ phải sử dụng tới 15 cây vầu để dựng khung nhà lầu hình hộp chữ nhật, dài khoảng 1,2m, rộng khoảng 2m và cao 1m. Vầu được chẻ mỏng thành nan, đan thành những tấm phên nhỏ làm mái và vách. Trên nền khung ấy, nghệ nhân mới bắt đầu công đoạn cắt, dán giấy trang trí.

Hoa văn trên nhà táng vô cùng phong phú và tinh xảo. Mái nhà được dán hoa văn hình ngói máng, đục từ giấy màu đen; diềm mái tầng một, tầng hai là những họa tiết hình đèn. Phía trước nhà táng có cửa ra vào tượng trưng, làm bằng giấy màu; phía trên dán gương giấy màu vàng, ô cửa hình vuông dán giấy đỏ. Tất cả hòa quyện tạo nên một “ngôi nhà” rực rỡ sắc màu nhưng vẫn trang nghiêm, linh thiêng. Theo ông Vàng Thung Chúng, mỗi chi tiết trên nhà táng đều xuất phát từ khát vọng của người quá cố và sự sáng tạo của nghệ nhân. “Ngày xưa, các cụ đâu có nhà lầu, xe hơi. Nhưng trong lời mo thì có nhà lầu 8 cột, hai tầng, tầng ba có mái. Cột làm bằng cây sậy ở suối, quấn giấy màu xanh, đỏ, tím, vàng theo đường chéo, tạo thành những cây cột rất đẹp. Đó là cách con cháu gửi gắm ước mơ sung túc cho người đã khuất” - ông Chúng nói.

Cây tiền đã hoàn thiện. Ảnh: Lê Thủy

Cây tiền đã hoàn thiện. Ảnh: Lê Thủy

Không chỉ nhà táng, các lễ vật khác như ngựa giấy, cây tiền, chỉ vần... cũng được làm theo quy trình tương tự: dựng khung bằng vầu, mai, sau đó dán hoa văn giấy để hoàn thiện. Điểm cốt lõi của nghệ thuật tranh cắt giấy nằm ở kỹ thuật cắt, đục hoa văn. Tranh cắt giấy của người Nùng Dín có rất nhiều đường nét uốn lượn, vòng cung, hình tròn, bán nguyệt... Các đường cong lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau đòi hỏi nghệ nhân phải sử dụng linh hoạt nhiều loại dụng cụ: đục thẳng để tạo đường thẳng; đục lỗ tròn để tạo hoa văn hình tròn hoặc bán nguyệt; búa để đập đục; dao, kéo, cật nứa để cắt; dùi nhọn để dùi lỗ, ghim các khổ giấy lại với nhau. Có hai cách đục tranh: một là dùng khuôn mẫu hoa văn có sẵn, ép lên khổ giấy rồi đục theo; hai là đục trực tiếp, hoàn toàn dựa vào trí nhớ và kinh nghiệm của người thợ. Cách thứ hai đòi hỏi tay nghề cao, bởi mỗi đường đục đều phải chính xác; nếu sai lệch sẽ hỏng cả sản phẩm.

Trong các sản phẩm tranh cắt giấy, cây tiền được xem là minh chứng rõ nét nhất cho trình độ kỹ thuật và sự sáng tạo của nghệ nhân Nùng Dín. Cây tiền có cấu tạo như một chiếc váy áo sặc sỡ, gồm phần đầu, ngực, bụng, tượng trưng cho sự giàu sang, đủ đầy. Để làm cây tiền, nghệ nhân phải chọn loại giấy bản trắng, mỏng nhưng dai. Họ xếp chồng 100 tờ giấy thật ngay ngắn, dùng dùi nhỏ chọc xuyên qua để cố định, ghim lại bằng mảnh giấy tam giác cho khỏi xê dịch. Trên mỗi khổ giấy, nghệ nhân vẽ hoa văn bằng bút chì, thước kẻ; sau đó rải cám gạo lên ván, đặt giấy lên và bắt đầu đục theo nét vẽ. Chỉ với vài đường kẻ đơn giản, sau khi bung ra, 100 tờ giấy ấy trở thành một “bộ váy” cao tới 4,5m, liền mạch, không cần ghép nối. Sự kỳ công ấy cho thấy người thợ Nùng Dín phải có tay nghề và sự tập trung cao độ đến mức nào mới tạo ra được một sản phẩm hoàn chỉnh.

Giữ lửa di sản nơi biên giới

Trước đây, ở Mường Khương, Bản Lầu, Bản Sen hay một số địa phương khác có khá nhiều nghệ nhân biết làm tranh cắt giấy. Họ lập thành các đội chuyên hành nghề, phục vụ tang lễ cho cộng đồng. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi của đời sống xã hội, số người am hiểu và theo nghề ngày càng ít. Việc sử dụng giấy màu mua sẵn ngoài chợ thay cho giấy nhuộm từ thực vật tuy giúp giảm công sức, nhưng cũng đặt ra nguy cơ mai một văn hóa truyền thống.

Nhận thức được giá trị đặc biệt của nghệ thuật tranh cắt giấy, cuối năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận nghề làm tranh cắt giấy của người Nùng Dín là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đây không chỉ là sự ghi nhận xứng đáng đối với một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo, mà còn là động lực để cộng đồng và chính quyền địa phương chung tay bảo tồn, truyền dạy cho thế hệ trẻ.

Trong bối cảnh biên giới ngày càng đổi thay, việc gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống như tranh cắt giấy của người Nùng Dín có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó không chỉ là bảo tồn một nghề thủ công, mà còn là giữ gìn cốt lõi văn hóa, bản sắc và đời sống tinh thần của đồng bào nơi phên giậu Tổ quốc. Nghệ thuật tranh cắt giấy, với những đường đục mềm mại trên nền giấy mỏng, vẫn luôn kể câu chuyện về lòng hiếu thảo, về khát vọng sống đủ đầy và về sức sáng tạo bền bỉ của con người vùng cao. Giữ được tranh cắt giấy cũng là giữ được một phần hồn cốt văn hóa của dân tộc Nùng Dín nơi biên giới Lào Cai.

Thủy Lê

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/tranh-cat-giay-di-san-tam-linh-cua-dan-toc-nung-din-noi-bien-gioi-lao-cai-post499136.html