Tự hào nghề tranh Đông Hồ

“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.

Mỗi mùa xuân đến, hai câu thơ ấy lại khơi dậy ký ức phiên chợ Tết quê, bức tranh dân gian treo trên đầu gánh hàng như chở cả mùa xuân theo bà, theo mẹ về mỗi nếp nhà. Trên nền giấy điệp ánh kim, những hình tượng mộc mạc mà giàu triết lý đã đi vào tâm thức nhiều thế hệ như một phần hồn quê, hồn Việt.

Từ làng Đông Hồ bên sông Đuống, dòng tranh này đã đồng hành cùng đời sống văn hóa người Việt qua bao thế kỷ. Gà trống kiêu hãnh, đàn lợn no đủ, đám cưới chuột dí dỏm… mỗi bức tranh đều gửi gắm niềm tin về điều thiện, mong ấm no, nhắc nhở đạo lý và lòng nhân hậu. Có thời, tranh Đông Hồ là “linh hồn” của chợ Tết miền Bắc, ở đâu có Tết, ở đó có tranh.

Rồi nhịp sống hiện đại cuốn đi nhiều điều từng rất thân thuộc. Chợ Tết truyền thống thưa dần, nghề làm tranh thu hẹp chỉ còn ở vài gia đình. Ván khắc gỗ và kỹ thuật pha màu từng làm nên danh tiếng của tranh Đông Hồ đã có lúc đứng bên bờ mai một.

Nhưng di sản chỉ thực sự sống khi có người giữ lửa. Giữa phố cổ Hà Nội sầm uất, cánh cửa gỗ lim của ngôi nhà số 42 Hàng Cân mỗi ngày vẫn mở ra một không gian ký ức. Ở đó, một người phụ nữ tuổi ngoài tám mươi kiên trì gìn giữ giấy dó, nâng niu từng bức tranh dân gian, kể câu chuyện về cội nguồn bằng giọng Hà Nội gốc chậm rãi mà tự hào. Từ căn nhà nhỏ ấy, tranh Đông Hồ đã băng qua đại dương đến châu Âu, châu Mỹ… mang theo câu chuyện về một Việt Nam mộc mạc, trí tuệ và nhân văn.

Trở lại quê hương Đông Hồ, những nghệ nhân cao tuổi vẫn đều tay pha màu, dập khuôn. Thu nhập chưa cao, nhưng người Đông Hồ bám nghề bằng niềm tin giản dị, ngày nào còn giữ được sắc màu trên giấy điệp, ngày ấy bản sắc Việt còn được nhận diện. Đó chính là những người âm thầm níu giữ sợi dây văn hóa qua những thời khắc khó khăn nhất.

Tin vui từ kỳ họp UNESCO những ngày này mở ra kỳ vọng mới: Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đã được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Đó vừa là sự khẳng định giá trị độc đáo của một dòng tranh mang đậm bản sắc Việt, vừa là lời nhắc mạnh mẽ về tình trạng mai một của di sản. Danh hiệu này không chỉ để tự hào, mà còn đặt chúng ta trước trách nhiệm quốc tế phải hành động kịp thời, quyết liệt, bền bỉ hơn.

Những cảnh báo mà UNESCO nêu ra cũng trùng với thực tế hôm nay: Lực lượng nghệ nhân thu hẹp nhanh; lớp trẻ chưa mặn mà kế nghiệp; thị trường tiêu thụ còn hạn chế; nguyên liệu tự nhiên và không gian làng nghề chịu sức ép mạnh của đô thị hóa…

Luật Di sản văn hóa 2024 và kế hoạch với 7 nhóm nhiệm vụ bảo vệ nghề dân gian Đông Hồ mà Việt Nam cam kết trước UNESCO mở ra cơ hội mới: Hỗ trợ trực tiếp nghệ nhân; tạo nguồn lực để truyền dạy; xây dựng kho tư liệu nghề; phát triển chuỗi sản phẩm gắn với kinh tế sáng tạo và du lịch… Nhưng cơ hội chỉ thành hiện thực nếu có quyết tâm và năng lực tổ chức thực hiện. Trong đó, Bắc Ninh phải là địa phương đi đầu biến cam kết quốc gia thành chương trình cụ thể, có nguồn lực, có lộ trình, có người chịu trách nhiệm rõ ràng.

Danh hiệu UNESCO là tấm gương soi trách nhiệm của mỗi chúng ta: Hoặc gìn giữ để tranh Đông Hồ tiếp tục hiện diện trong đời sống hôm nay, hoặc đứng nhìn một di sản được ghi trong hồ sơ nhưng mờ dần khỏi nếp nhà, phiên chợ và khỏi chính ký ức cộng đồng mình…

Tranh Đông Hồ từng bừng sáng trong lịch sử. Hôm nay, với sự đồng lòng của cộng đồng, quyết tâm của Bắc Ninh và sự đồng hành quốc tế, một mùa xuân mới đang đến với di sản này. Hãy để mỗi bức tranh tiếp tục kể câu chuyện văn hóa Việt trong nhịp sống đương đại, để sắc màu dân gian hiện diện bền lâu trong đời sống, trong trái tim người Bắc Ninh - Kinh Bắc.

Đó mới là ý nghĩa đầy đủ của niềm tự hào nghề tranh Đông Hồ.

Trần Đức

Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/tu-hao-nghe-tranh-dong-ho-postid432974.bbg