Từ lớp học tiếng dân tộc đến sức mạnh quốc phòng cơ sở
Khi tiếng nói được kết nối, niềm tin được bồi đắp thì 'thế trận lòng dân' càng vững chắc, tạo thêm sức mạnh tổng hợp để toàn quân hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Với việc hiểu và nói được tiếng đồng bào, mọi thông tin truyền đạt trở nên trực diện, dễ tiếp nhận. Các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, giảm nghèo, an sinh xã hội, chuyển đổi sinh kế hay bảo đảm an ninh trật tự vì thế cũng được thực thi hiệu quả hơn.
Nói tiếng của đồng bào còn tạo nên sự đồng cảm và niềm tin – yếu tố cốt lõi củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là giải pháp để quân đội xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được triển khai bền vững ngay từ cơ sở.

Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 750, Bộ CHQS tỉnh Thái Nguyên vận chuyển vật liệu chung tay xóa nhà tạm. (Ảnh: Bộ CHQS tỉnh Thái Nguyên)
Chính sách “bám rễ” khi người dân hiểu
Trước sáp nhập, vận hành chính quyền địa phương hai cấp, xã Nậm Lạnh thuộc huyện Sốp Cộp, nay là xã Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Nậm Lạnh có hơn 8,6km đường biên giới giáp với nước bạn Lào, là địa bàn sinh sống của 896 hộ, thuộc 3 dân tộc: Thái, Mông, Khơ Mú.
Có hơn 1.022ha đất sản xuất nông nghiệp nhưng bao năm qua Nậm Lạnh vẫn là địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (khu vực 3). Ngoài ra, tình trạng di cư tự phát, chủ yếu trong đồng bào dân tộc Mông, vẫn diễn biến phức tạp.
Ổn định an ninh trật tự, giúp người dân Nậm Lạnh thoát nghèo là một trong những nhiệm vụ chính trị của Đoàn Kinh tế - Quốc phòng (KT - QP) 326, Quân khu 2. Cùng với tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đơn vị đã vận động, hỗ trợ nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, từng bước vươn lên thoát nghèo.
Đoàn KT - QP 326 đang triển khai hơn 70 mô hình phát triển kinh tế, trong đó có hơn 40 mô hình tại các cơ quan, đơn vị; gần 30 mô hình liên kết với nhân dân. Nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng ủy Đoàn KT-QP 326 đặt mục tiêu giúp 7 đến 10 hộ nghèo thoát nghèo, từ 1 đến 2 bản thực hiện một số nội dung về xây dựng nông thôn mới.
Theo Thượng tá Trần Văn Việt, Phó đoàn trưởng Đoàn KT - QP 326, Nậm Lạnh có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp để trồng cây cà phê, chăn nuôi tập trung. Nhưng bao đời nay, đồng bào chủ yếu trồng cây ngắn ngày (ngô, sắn), chăn nuôi thả rông, việc vận động đồng bào chuyển đổi cây trồng không hề dễ.
Để giúp bà con thay đổi tập quán canh tác, đơn vị đã cử nhiều lượt cán bộ, chiến sĩ về các bản tuyên truyền, vận động. Biết tiếng dân tộc nên cán bộ, chiến sĩ Đoàn KT - QP 326 không chỉ chuyển tải được chủ trương của Nhà nước mà còn hiểu được tâm tư của đồng bào, nhờ đó việc vận động chuyển đổi cây trồng thuận lợi hơn.
Đầu năm 2025, gia đình ông Quàng Văn Thành ở bản Huổi Lạnh, đã chuyển 1ha trồng ngô, sắn trước đây sang trồng cà phê, từ 1.600 cây giống và phân bón do Đoàn KT - QP 326 hỗ trợ. Cán bộ kỹ thuật còn hướng dẫn gia đình ông kỹ thuật trồng, chăm sóc để cây cà phê đạt năng suất cao.
Từ một hộ ban đầu, đến nay bản Huổi Lạnh đã có hơn 10 gia đình chuyển sang trồng cà phê, được Đoàn KT - QP 326 hỗ trợ giống, phân bón, kỹ thuật. Được chăm sóc tốt, đúng kỹ thuật, 1ha cà phê mỗi vụ có thể cho thu hoạch khoảng 1,5 tấn quả tươi, đem lại thu nhập trên dưới 100 triệu đồng, mở ra tương lai phát triển kinh tế cho người dân Huổi Lạnh.
Kinh tế khởi sắc, bà con yên tâm ở lại quê hương phát triển sản xuất, đồng thời cũng tạo “lực hút” để những hộ đã từng di cư tự phát trước đây quay về bản quán. Gần đây nhất, ngày 2/11/2025, gia đình ông Vừ Gạ Sênh, sinh năm 1963, gồm 5 nhân khẩu, sau 10 năm di cư ra nước ngoài làm thuê đã quay về địa phương, ở bản Hua Lạnh, xã Sốp Cộp.
Yêu cầu chiến lược, không chỉ là kỹ năng hỗ trợ
Cùng với Nậm Lạnh, Đoàn KT - QP 326 còn thực hiện nhiệm vụ tại 15 xã thuộc 3 huyện trước đây: Sốp Cộp (Sơn La), Điện Biên và Điện Biên Đông của tỉnh Điện Biên. Đây đều là những địa bàn đặc biệt khó khăn, trên 97% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó đồng bào Mông chiếm hơn 34%.
Để có đội ngũ tuyên truyền viên “vừa hồng, vừa chuyên”, thời gian qua Đoàn KT - QP 326 phối hợp với Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La mở các lớp học tiếng dân tộc Mông; đồng thời duy trì, nhân rộng mô hình “Mỗi tuần học một nội dung tiếng Mông”.
Theo Thượng tá Trần Văn Việt, nhờ biết tiếng dân tộc thiểu số nên việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cũng như vận động chuyển giao khoa học kỹ thuật, áp dụng vào sản xuất để nâng cao thu nhập cho bà con trở nên dễ dàng hơn.
Giai đoạn 2022 - 2025, từ 33,3 tỷ đồng thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg, Bộ Quốc phòng đã tổ chức thực hiện 195 lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số cho 29.250 lượt sĩ quan, quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng trong toàn quân.
(Báo cáo tham luận của Bộ Quốc phòng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình MTQG 1719, tổ chức ngày 13/8/2025)
Không riêng cán bộ, chiến sĩ Đoàn KT - QP 326 mà việc học và sử dụng tiếng nói của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được triển khai trong toàn quân. Đây không chỉ là một kỹ năng hỗ trợ, mà là yêu cầu mang tính chiến lược.
Ngày 26/5/2020, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành Chỉ thị số 105/CT-BQP về việc tăng cường học tập ngoại ngữ và tiếng dân tộc thiểu số trong toàn quân. Các đơn vị đóng quân trên địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống theo cộng đồng là những đơn vị điểm trong tổ chức học tập tiếng dân tộc thiểu số.
Bộ đội Biên phòng, với phương châm “3 cùng, 4 bám”, là lực lượng “điểm” triển khai học tiếng dân tộc thiểu số của quân đội. Giai đoạn 2021 - 2025, toàn đơn vị có 5.703 cán bộ, chiến sĩ được đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số, trong đó có 381 người nói, viết thành thạo và 5.322 người biết nói, giao tiếp thông thường.

Kết quả bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng giai đoạn 2021–2025 theo từng nhóm ngôn ngữ. (Nguồn số liệu: Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng)
Tăng sức mạnh lòng dân từ thu hẹp khoảng cách ngôn ngữ
Với đội ngũ cán bộ, chiến sĩ hiểu và nói được tiếng đồng bào, công tác tuyên truyền, vận động của quân đội ngày càng đi vào chiều sâu. Khắc phục được trở ngại về ngôn ngữ là “cầu nối” để bộ đội gần dân hơn, nhất là trong bối cảnh vẫn còn một bộ phận người dân vùng sâu, vùng xa chưa thông thạo tiếng phổ thông.
Xã Phình Giàng, tỉnh Điện Biên được sáp nhập từ xã Pú Hồng và xã Phình Giàng của huyện Điện Biên Đông cũ. Đây là địa bàn thuộc phạm vi triển khai dự án của Đội sản xuất và xây dựng cơ sở chính trị số 8 (Đội 8), thuộc Đoàn KT - QP 326.
Phình Giàng là xã có điều kiện kinh tế - xã hội rất khó khăn. Số liệu tại Đại hội Đảng bộ xã lần thứ nhất nhiệm kỳ 2025 - 2030 cho thấy, thu nhập bình quân của xã mới đạt hơn 30 triệu đồng/người, tỷ lệ hộ nghèo gần 43%.
Ở Phình Giàng vẫn còn một bộ phận người dân chưa thông thạo tiếng phổ thông, chủ yếu là người trên 60 tuổi, sống ở vùng sâu, vùng xa. Nếu không biết tiếng dân tộc để nói cho dân nghe, hiểu và làm theo thì các chính sách hỗ trợ giảm nghèo rất khó “bén rễ”.
Pú Hồng A là một trong những bản khó khăn nhất của xã Phình Giàng. Trước đây, bà con chủ yếu chăn nuôi gia súc thả rông, được mất do trời; những quả đồi bạc màu trồng ngô, sắn không đủ để xua đi cái nghèo đeo bám.
Đội 8 đã cử cán bộ biết tiếng Mông vào Pú Hồng A tuyên truyền, vận động bà con chuyển đổi cây trồng, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, phòng bệnh cho gia súc. Biết ngôn ngữ, hiểu phong tục nên bà con tiếp nhận thông tin đầy đủ.
Ông Vàng A Trứ, dân tộc Mông, ở bản Pú Hồng A chia sẻ: “Bộ đội biết tiếng Mông nên nói bà con hiểu, bà con nói bộ đội cũng hiểu. Nhờ đó có sự chia sẻ, gần gũi hơn, bà con nắm được những thông tin cần thiết”.
Không riêng ông Vàng A Trứ, hiện vẫn còn một bộ phận dân số DTTS chưa biết tiếng phổ thông. Theo kết quả điều tra thông tin kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, được Ủy ban Dân tộc công bố tháng 7/2025, 53 dân tộc thiểu số hiện có hơn 14,44 triệu nhân khẩu, nhưng tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết tiếng phổ thông mới đạt 84,6%.
Chính vì vậy, việc các đơn vị đóng quân trên địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống theo cộng đồng học tiếng dân tộc thiểu số theo Chỉ thị số 105/CT-BQP của Bộ Quốc phòng cần tiếp tục được đẩy mạnh. Khi ngôn ngữ được kết nối, khoảng cách được thu hẹp và niềm tin được gây dựng từ những điều giản dị nhất. Đó cũng là cách để quân đội bồi đắp “thế trận lòng dân” ngay tại cơ sở – nơi mọi chính sách quốc phòng, an ninh bắt đầu bén rễ.












