Từ trợ cấp sang trao cần câu: Kinh nghiệm giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Thực tiễn triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia trong nhiều năm qua cho thấy, giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chỉ thực sự thành công khi chuyển từ tư duy 'hỗ trợ cho không' sang 'hỗ trợ để người dân tự vươn lên'.
Từ những mô hình sinh kế dựa trên lợi thế bản địa, nhiều địa phương đã rút ra những kinh nghiệm quý, tạo chuyển biến căn bản về đời sống, thu nhập và niềm tin của người dân.
Phát huy lợi thế bản địa, gắn sinh kế với thị trường
Thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), đặc biệt là Chương trình 135 trước đây và hiện nay là Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 (Chương trình MTQG 1719), diện mạo nhiều vùng miền núi trên cả nước đã thay đổi rõ nét. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm nhanh, nhiều địa bàn từng là “vùng trũng” nay đã hình thành những mô hình kinh tế hàng hóa hiệu quả, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng.

Xã Suối Hai phát huy thế mạnh địa phương, phát triển cây chè giá trị cao. Ảnh: Khuất Duyên
Từ thực tiễn đó, có thể khái quát bốn trụ cột kinh nghiệm tạo nên thành công trong công tác giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số: phát huy lợi thế bản địa gắn với sinh kế bền vững; đầu tư đồng bộ hạ tầng và giáo dục; nâng cao năng lực cán bộ cơ sở, phát huy vai trò cộng đồng; và chuyển đổi tư duy từ “trợ cấp” sang “hỗ trợ phát triển”.
Khác với đồng bằng, điều kiện sản xuất ở miền núi chịu nhiều hạn chế về địa hình, khí hậu và hạ tầng. Thực tiễn cho thấy, những địa phương giảm nghèo thành công đều không áp dụng máy móc các mô hình của vùng thấp, mà bắt đầu từ chính lợi thế của rừng, đất đai, khí hậu và tri thức bản địa.
Tại nhiều tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, thay vì canh tác lúa, ngô truyền thống hiệu quả thấp, người dân đã chuyển sang các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao như quế, hồi, sa chi, dược liệu quý, sâm Ngọc Linh… Điểm chung của các mô hình này là phù hợp thổ nhưỡng, có thị trường tiêu thụ rõ ràng và gắn với chuỗi giá trị, giúp người dân thoát nghèo một cách bền vững.
Thực tiễn ấy cũng được thể hiện sinh động ngay tại Hà Nội. Tại các xã miền núi Ba Vì như Ba Vì, Suối Hai, Yên Bài… với khoảng 28.000 đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tập trung. Dù nằm trong Thủ đô, song điều kiện sản xuất ở các xã này vẫn mang đặc trưng miền núi, đòi hỏi cách tiếp cận riêng trong giảm nghèo.
Những năm gần đây, thôn An Hòa (xã Suối Hai) nổi lên như một “điểm sáng” về phát triển kinh tế nông nghiệp dựa trên lợi thế bản địa, với nghề trồng mai trắng.
Theo người dân địa phương, nghề trồng mai trắng xuất hiện từ khoảng năm 1997, khi chỉ có 5-7 hộ mạnh dạn đưa giống mai về trồng thử nghiệm. Khí hậu mát mẻ, đất pha cát nhẹ, giàu dinh dưỡng, thoát nước tốt đã giúp cây mai sinh trưởng khỏe, cho hoa đẹp, được thị trường ưa chuộng.
Từ vài hộ ban đầu, đến nay thôn An Hòa có 140 hộ trồng mai trên tổng số 270 hộ, trở thành một trong những vùng trồng mai trắng tập trung lớn nhất miền Bắc, được thành phố công nhận là làng nghề truyền thống.
Trước đây, An Hòa là vùng thuần nông, người dân chủ yếu trồng sắn, lạc, ngô với thu nhập thấp, đời sống bấp bênh. Việc chuyển đổi sản xuất gặp nhiều rào cản do thiếu thông tin về giống, kỹ thuật và thị trường. Không ít hộ e ngại rủi ro, sợ “trồng rồi không ai mua”.
Bước ngoặt đến khi hệ thống truyền thông cơ sở được củng cố, người dân được tiếp cận đầy đủ hơn với khoa học kỹ thuật, thị trường và các chính sách hỗ trợ. Nhận thấy hiệu quả kinh tế vượt trội của cây mai trắng, bà con mạnh dạn vay vốn, tham gia tập huấn, mở rộng diện tích trồng.
Nhờ chuyển đổi đúng hướng, thu nhập bình quân của thôn An Hòa đạt hơn 100 triệu đồng/người/năm. Nhiều hộ xây dựng được nhà cửa khang trang, tích lũy vốn tái đầu tư, thậm chí có hộ đạt doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm.
Ông Bùi Việt Hà, Chi hội trưởng Chi hội nghề nghiệp mai trắng thôn An Hòa cho biết: “Đất đai và khí hậu ở đây đặc biệt hợp với mai trắng. Nhờ cây mai, đời sống người dân ổn định hơn rất nhiều. Đây không chỉ là sinh kế mà còn là hướng phát triển bền vững cho vùng miền núi Ba Vì”.
Gia đình ông Hà hiện có hơn 3.600m² trồng mai, cho thu nhập 700-800 triệu đồng/năm. Còn anh Khuất Duy Mạnh, từ vài trăm mét vuông đất canh tác ban đầu, nay đã mở rộng lên 21.600m² trồng mai trắng, khẳng định: “Một sào mai cho giá trị kinh tế tương đương cả trăm tấn thóc mỗi năm”.
Phó Chủ tịch UBND xã Suối Hai Đỗ Văn Công cho rằng, kinh nghiệm lớn nhất trong công tác hỗ trợ giảm nghèo bền vững của địa phương là chuyển mạnh từ tư duy hỗ trợ mang tính cứu trợ sang hỗ trợ phát triển sinh kế lâu dài, lấy người dân làm chủ thể và phát huy tối đa lợi thế sẵn có của địa bàn.
Là xã miền núi của Thủ đô, với gần 7.000 người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, điều kiện sản xuất còn nhiều khó khăn, xã Suối Hai xác định không thể áp dụng máy móc các mô hình sản xuất của vùng đồng bằng, mà phải dựa vào điều kiện tự nhiên, tập quán canh tác và tri thức bản địa để xây dựng mô hình sinh kế phù hợp. Việc phát triển các cây, con chủ lực như mai trắng, dược liệu, chăn nuôi gắn với thị trường đã giúp nhiều hộ dân từng bước thoát nghèo, vươn lên khá giả.
Một kinh nghiệm quan trọng khác là tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức và năng lực cho người dân. Khi được tiếp cận đầy đủ thông tin về chính sách, khoa học kỹ thuật và đầu ra sản phẩm, người dân mạnh dạn hơn trong chuyển đổi sản xuất, chủ động vay vốn, tham gia các lớp tập huấn và liên kết sản xuất.
Bên cạnh đó, xã Suối Hai chú trọng phát huy vai trò của cộng đồng và các tổ chức đoàn thể, nhất là Hội Nông dân trong việc hỗ trợ, kèm cặp các hộ nghèo, hộ cận nghèo. Thông qua các mô hình chi hội nghề nghiệp, tổ hợp tác, người dân không chỉ được hỗ trợ về vốn, kỹ thuật mà còn được chia sẻ kinh nghiệm, giảm rủi ro trong sản xuất.
Phó Chủ tịch UBND xã Suối Hai Đỗ Văn Công khẳng định, giảm nghèo bền vững không chỉ là giảm số hộ nghèo, mà quan trọng hơn là giúp người dân có sinh kế ổn định, tư duy làm ăn dài hạn và niềm tin vào khả năng tự vươn lên của chính mình.
Từ trợ cấp sang hỗ trợ phát triển
Không chỉ xã Suối Hai, nhiều xã miền núi khác cũng đã làm giàu từ việc phát huy thế mạnh riêng. Tại xã Ba Vì, nhiều hộ nông dân vươn lên khá giả nhờ nghề thuốc nam, gắn bảo tồn tri thức y học dân gian với phát triển kinh tế.

Chị Tạ Thị Năm ở xã Yên Bài phát triển kinh tế gia đình nhờ chăn nuôi bò sữa. Ảnh: Sơn Tùng
Trong khi đó, xã Yên Bài lại nổi bật với nghề chăn nuôi bò sữa, trở thành một trong những vùng cung cấp sữa tươi lớn của Thủ đô. Từ thế mạnh tự nhiên và thị trường ổn định, hàng nghìn hộ dân nơi đây đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Một điển hình tiêu biểu là chị Tạ Thị Năm, Chi hội trưởng Chi hội nông dân thôn Mồ Đồi, xã Yên Bài, được tôn vinh là Nông dân Việt Nam xuất sắc năm 2024.
Bắt đầu từ mô hình nuôi bò sữa khi còn nhiều người nghi ngại, đến nay gia đình chị Năm sở hữu đàn bò sữa 62 con, trong đó 50 con đang khai thác sữa, cho năng suất trung bình 1 tấn sữa/ngày. Trang trại rộng hơn 1.200m², được đầu tư đồng bộ hệ thống chuồng trại, thiết bị tự động, xử lý môi trường với tổng giá trị trên 3 tỷ đồng.
Nhờ liên kết tiêu thụ ổn định với doanh nghiệp, sản phẩm sữa bò của gia đình chị luôn được đánh giá loại 1, giá thu mua cao. Doanh thu đạt khoảng 7,5 tỷ đồng/năm, lãi ròng khoảng 5 tỷ đồng/năm. Không chỉ làm giàu cho gia đình, mô hình của chị Năm còn tạo việc làm cho 17 lao động địa phương, với thu nhập 7-10 triệu đồng/người/tháng. Trên cương vị Chi hội trưởng, chị đã hỗ trợ vốn, con giống, tạo việc làm cho nhiều hộ nghèo, góp phần lan tỏa khát vọng làm giàu trong cộng đồng. Hiện nay, 90% hội viên Chi hội nông dân thôn Mồ Đồi phát triển mô hình nuôi bò sữa hiệu quả với hàng chục hộ đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi các cấp.
Từ thực tiễn cả nước và Hà Nội có thể thấy, giảm nghèo bền vững không nằm ở việc hỗ trợ bao nhiêu tiền, mà ở chỗ trao cho người dân cơ hội, kiến thức và niềm tin. Khi được tiếp cận thông tin, kỹ thuật, thị trường và chính sách phù hợp, người dân miền núi hoàn toàn có thể tự vươn lên bằng chính nội lực của mình.
Chuyển đổi tư duy từ “cho con cá” sang “trao cần câu”, từ trợ cấp ngắn hạn sang hỗ trợ phát triển dài hạn chính là chìa khóa giúp nhiều địa phương thoát nghèo bền vững.
Thực tiễn ở các xã miền núi của Hà Nội cho thấy, khi chính quyền cơ sở đồng hành, cán bộ “hiểu dân, gần dân”, cộng đồng cùng tham gia, các chương trình mục tiêu quốc gia không chỉ giảm nghèo về thu nhập, mà còn giảm nghèo về nhận thức, kỹ năng và cơ hội phát triển.
Theo Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), thời gian qua, chương trình đã góp phần duy trì mức giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1-1,5% mỗi năm; trong đó tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm, các huyện nghèo giảm 4-5%/năm.
Tính đến cuối năm 2025, cả nước đã triển khai 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo, trong đó 9.816 mô hình nông nghiệp và 771 mô hình phi nông nghiệp thu hút hơn 205.000 hộ dân tham gia, bao gồm hơn 110.000 hộ nghèo, 63.000 hộ cận nghèo và gần 32.000 hộ mới thoát nghèo. Những mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trồng cây ăn quả đạt chuẩn VietGAP, nuôi trồng thủy sản bền vững hay chăn nuôi hữu cơ đã giúp gần 100.000 hộ dân từng bước thay đổi tập quán sản xuất, nâng cao năng suất, tiếp cận thị trường rộng mở và gia tăng thu nhập một cách rõ rệt.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng đánh giá, giảm nghèo bền vững không chỉ là mục tiêu kinh tế, mà còn là quá trình khơi dậy nội lực, củng cố niềm tin và tạo nền tảng cho sự phát triển lâu dài của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau”.











