'Vá' lỗ hổng cấp cứu ngoại viện: Cần sự chung tay của cộng đồng
Có thể thấy, nhiệm vụ 'vá' lỗ hổng không chỉ thuộc về ngành y tế hay các cơ quan quản lý.

Bệnh viện E tổ chức phổ biến kiến thức cấp cứu ngừng tuần hoàn. Ảnh: BVCC
Cả xã hội đã và đang nhận ra sự thiếu hụt này. Từ đó, xuất hiện nhiều sáng kiến, mô hình mới nhằm bổ sung cho những khoảng trống của hệ thống chính thức. Hai hướng chủ đạo được chú trọng là nâng cao kỹ năng cộng đồng và đẩy mạnh sáng kiến xã hội hóa, ứng dụng công nghệ vào cấp cứu ngoại viện.
Người cứu hộ đầu tiên
Trong cấp cứu ngoại viện, người đầu tiên có mặt bên nạn nhân thường là người thân, hàng xóm hay một người qua đường. Họ chính là “cứu hộ tuyến đầu” trong những phút sinh tử, nhưng phần lớn lại thiếu kỹ năng xử trí ban đầu.
Tỷ lệ người dân được đào tạo sơ cấp cứu bài bản tại Việt Nam vẫn ở mức rất thấp, trong khi phần lớn tình huống khẩn cấp - từ đột quỵ, đuối nước đến tai nạn giao thông - đều xảy ra ngoài bệnh viện.
Những năm gần đây, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam không ngừng mở rộng hợp tác với các đối tác trong Phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế, các đối tác trong và ngoài nước để phát triển hoạt động sơ cấp cứu.
Đồng thời, kêu gọi các cấp hội trong cả nước tích cực tuyên truyền nâng cao nhận thức, phổ biến kiến thức, kỹ năng sơ cấp cứu cho người dân; chú trọng khả năng ứng dụng các công nghệ số để đổi mới phương thức đào tạo, huấn luyện sơ cấp cứu và truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về sơ cấp cứu.
Trong khi đó, một số cơ sở y tế cũng chủ động tham gia trực tiếp vào hệ thống cấp cứu ngoại viện. Đơn cử, từ tháng 11/2023, Bệnh viện E đã tham gia vào hệ thống cấp cứu ngoại viện cùng Trung tâm Cấp cứu 115. Qua đó, đã góp phần giảm tải cho Trung tâm Cấp cứu 115, giúp người dân tiếp cận dịch vụ cấp cứu nhanh, kịp thời. Đồng thời, làm tăng cơ hội cứu sống người bệnh.
TS.BS Nguyễn Công Hựu - Giám đốc Bệnh viện E khẳng định, cấp cứu ngoại viện còn gọi là cấp cứu ngoài cộng đồng, tức là nạn nhân sẽ được hỗ trợ bởi người gần mình nhất, người chứng kiến sự việc và có kỹ năng cấp cứu ban đầu. Mục tiêu của cấp cứu ban đầu là can thiệp càng sớm càng tốt nhằm duy trì chức năng sống của nạn nhân ở tình trạng ổn định nhất có thể cho đến khi đưa đến bệnh viện.
Đó là giai đoạn quyết định sống chết của người bệnh. Do đó, việc phát triển hệ thống cấp cứu ngoại viện có vai trò quan trọng giúp giảm nguy cơ tử vong và giảm mức độ thương tật cho người bệnh, đặc biệt đối với các trường hợp nguy kịch. Từ đó, giảm gánh nặng bệnh tật và tài chính cho mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.
Những bệnh viện lớn khác như: Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch Mai… cũng liên tục tổ chức các khóa đào tạo Cấp cứu từ cơ bản đến nâng cao, nhằm nâng cao năng lực đánh giá và xử trí, cấp cứu. Tham gia khóa đào tạo, học viên được trang bị các kiến thức về lý thuyết. Đồng thời, được huấn luyện để thực hiện các kỹ năng cấp cứu cần thiết như: Kỹ thuật ép tim, bóp bóng qua mặt nạ, đặt ống nội khí quản, nhận biết rối loạn nhịp tim/sốc điện trên mô hình…
Dự án bảo vệ sức khỏe cộng đồng
Song song với nâng cao kỹ năng cộng đồng, nhiều sáng kiến xã hội hóa và công nghệ mới đang được thúc đẩy. Một trong những đề xuất đáng chú ý là lắp đặt máy sốc tim tự động (AED) tại nơi công cộng - giải pháp đã được nhiều quốc gia áp dụng thành công.
Đại biểu Quốc hội, PGS.TS Nguyễn Lân Hiếu - Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội - người đưa ra ý tưởng cho rằng, Việt Nam nên cân nhắc lắp đặt máy sốc điện ở công cộng. Theo ông, các nước thế giới đã lắp đặt từ lâu.
Việc cấp cứu tuần hoàn ngoại viện tỷ lệ sống sót khi có máy sốc điện cao hơn rất nhiều so với cấp cứu bình thường bằng tay. Tháng 8 này, dự án sẽ khảo sát, sau đó công bố địa điểm đặt máy. Dự kiến, trước mắt, sẽ đặt các máy tại trạm y tế xã, trung tâm y tế huyện.
PGS.TS Nguyễn Lân Hiếu cũng cho biết thêm, việc đặt máy sốc điện nơi công cộng cần phải có lộ trình rõ ràng. Đầu tiên, ông muốn thử nghiệm ở một thành phố du lịch, để thuận lợi hơn khi kêu gọi nguồn lực. Ở thành phố lớn có nhiều công ty lớn nên nguồn lực xã hội dễ dàng hơn vùng sâu, vùng xa. Sau khi triển khai, từ đó, có thể rút ra lợi - hại để mở rộng.
Tại khu vực thành phố, PGS Hiếu cho biết, dự án sẽ kêu gọi các nguồn lực xã hội hóa, doanh nghiệp tham gia. Ví dụ, doanh nghiệp may mặc có thể mua và đặt máy sốc điện tại cửa hàng của họ trên các con phố. Khi có nạn nhân cần, ở gần khu vực cửa hàng, máy đó sẽ được nhân viên cửa hàng nhanh chóng mang đến và nhân viên đó cũng được hướng dẫn về cách sử dụng.
“Về pháp lý, chúng ta đã có Luật Khám, chữa bệnh. Trong đó, có điều khoản rất rõ ràng: Khi gặp một trường hợp nguy hiểm đến tính mạng, mọi người đều phải có trách nhiệm hỗ trợ, cứu chữa. Một ‘luật’ nữa quan trọng hơn đó là đạo đức của con người. Tôi tin chắc rằng, không một người dân nào đi cấp cứu một người bệnh đã ngừng tim mà bị lên án”, PGS Hiếu bày tỏ quan điểm.
Khi triển khai, sẽ căn cứ trên luật pháp để lên quy trình cấp cứu. Quy trình này được dán ở các thiết bị sốc tim tự động. Ngoài ra, ở các trạm sẽ có đường dây nóng để hướng dẫn qua video call. Ngoài ra, đưa AI vào hỗ trợ hướng dẫn cũng là một phương án.
Về tính khả thi khi triển khai trong điều kiện hạ tầng và ngân sách hiện nay của Việt Nam, PGS Hiếu khẳng định: “Dù chi phí đầu tư ban đầu lớn, giá trị của việc giảm tỷ lệ tử vong là không thể đo đếm”.
Theo ông Nguyễn Lân Hiếu, có hai yếu tố quyết định thành công của dự án. Thứ nhất là nguồn lực đầu tư. Ban đầu, nguồn lực đầu tư chủ yếu từ các mạnh thường quân, tổ chức, doanh nghiệp. Hiện, đã có những đơn vị cam kết về tài chính. Thứ hai là đào tạo và truyền thông. Đây là trách nhiệm của các chuyên gia y tế.
“Tôi cho rằng, sức khỏe và tính mạng con người là vô giá, không thể so sánh với chi phí đầu tư. Nhiều nước có GDP thấp hơn Việt Nam vẫn triển khai. Không có lý do gì chúng ta không làm được”, PGS Hiếu nhấn mạnh và cho rằng dự án này tiến hành không có gì phức tạp, bởi quốc tế họ đã làm nhiều.
Cấp cứu ngoại viện không thể mạnh nếu thiếu sự chung tay của cộng đồng. Khi mỗi công dân đều có kỹ năng sơ cứu, mỗi khu vực công cộng đều có thiết bị hỗ trợ và mỗi địa phương đều sẵn sàng về nhân lực, phương tiện, thì cơ hội sống sẽ không bị bỏ lỡ chỉ vì khoảng trống giữa hệ thống y tế và cộng đồng. Lấp đầy khoảng trống đó không chỉ là nhiệm vụ y tế, mà còn là trách nhiệm xã hội.