Vài nét về văn học đề tài chiến tranh cách mạng ở Huế

HNN - Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã trở thành đề tài và cảm hứng bất tận trong ý thức nghệ thuật của văn nghệ sĩ. 50 năm qua, dù đất nước được sống trong không khí hòa bình, phát triển (từ 1975 đến nay), nhưng đề tài chiến tranh cách mạng (CTCM) vẫn luôn là dòng chảy mạnh mẽ.

 Bìa tác phẩm "Dòng sông phẳng lặng" của tác giả Tô Nhuận Vỹ

Bìa tác phẩm "Dòng sông phẳng lặng" của tác giả Tô Nhuận Vỹ

Dòng chảy cảm hứng sử thi

Từ chiến trường chống Mỹ, ở Huế xuất hiện nhiều gương mặt tầm cỡ cho nền văn học nghệ thuật (VHNT) cả nước viết về đề tài CTCM: Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hà Khánh Linh… Từ sau 1975, không khí cách mạng vẫn luôn thôi thúc các thế hệ văn nghệ sĩ Huế say mê khám phá, sáng tạo.

Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng chủ yếu của văn học CTCM. Những ký ức về cuộc chiến tranh vừa mới đi qua chưa lâu, niềm vui vỡ òa của sự sum họp cùng những giây phút đoàn tụ thiêng liêng. Mặc dù những đứa con tinh thần của họ được sinh ra trong những ngày hòa bình, nhưng lại được thai nghén, ấp ủ trong khói lửa chiến trường. Nhờ đó, những vần thơ vừa mang ký ức cháy bỏng từ chiến trường, vừa có khoảng cách thời gian để nghiệm suy, ngẫm nghĩ, nên hình tượng thơ, cảm xúc, giọng điệu trở nên trầm tĩnh hơn. Đáng chú ý là các tác phẩm “Hát về ngọn lửa” của Hải Bằng; “Bài thơ không năm tháng” của Lâm Thị Mỹ Dạ; “Ngợi ca” của Võ Quê; “Tình ca người lính” của Nguyễn Trọng Tạo; “Trăng cứu rỗi” của Hà Khánh Linh…

Nói về trách nhiệm của văn nghệ sĩ về cuộc chiến tranh vừa qua, nhà văn Nguyễn Quang Hà khẳng định: “Chúng ta không thể không viết về đề tài chiến tranh”. Những ký ức chiến trường ấy đã đi vào những trang sách về chiến tranh của ông và đồng nghiệp một cách nhức buốt, vừa như những ký ức sống vừa như huyền thoại - sử - thi - anh hùng ca.

Những trang văn đã cháy lên

Văn nghệ sĩ đi từ chiến trường ra vẫn tiếp tục sáng tác về đề tài CTCM, với khuynh hướng hiện thực là khuynh hướng quy tụ đông đảo nhất các nhà văn tham gia như: Hồng Nhu, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Hà, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khắc Phê, Hà Khánh Linh… Trong đó, có ba tác giả tiểu thuyết tiêu biểu đáng chú ý là Tô Nhuận Vỹ, Hà Khánh Linh, Nguyễn Quang Hà.

Nhà văn Tô Nhuận Vỹ từng phát biểu “Chiến trường đã cho tôi những trang viết”. Sau khi tập truyện ngắn "Người sông Hương" ra mắt bạn đọc năm 1970, ông đã viết một mạch những tác phẩm nối tiếp như các tập truyện ngắn: “Em bé làng đảo”, "Làng thức”, bộ tiểu thuyết 3 tập “Dòng sông phẳng lặng” (1975) đã tái bản lần thứ 6, “Ngoại ô” (1982), “Phía ấy là chân trời” (1988)… Không miêu tả chiến công hiển hách của những tiểu đoàn, binh đoàn lớn, tác phẩm của nhà văn Tô Nhuận Vỹ đa phần viết về Nhân dân anh hùng, trong đó quân và dân là một, bởi ông cho rằng, nếu không có sự tiếp sức, bao bọc, che chở của Nhân dân thì bộ đội không thể làm nên chiến công.

Với nhà văn Nguyễn Quang Hà: “Viết là để trả nợ cho Nhân dân, đồng đội”. Ông có đến 8 năm sống và chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên (1967 - 1975) - là nơi được xem ác liệt nhất, là vùng giáp ranh, tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Ông tận mắt chứng kiến những hành động dũng cảm, trí thông minh, tinh thần chịu đựng gian khổ, đức hy sinh của cán bộ, chiến sĩ quân giải phóng. Chính điều này đã thôi thúc ông cầm bút và trở thành một trong những nhà văn hiếm hoi chủ yếu viết về chiến tranh.

Bộ tiểu thuyết “Thời tôi mặc áo lính” (xuất bản 2023) của nhà văn Nguyễn Quang Hà gồm 9 cuốn, viết về chiến tranh cách mạng từ năm 1967 đến năm 1975. Và hiện thực cuộc chiến đó được kể lại với bút pháp trần thuật, gần như là ghi chép lại chính cuộc sống thời chiến. Tác phẩm “Sông dài như kiếm”, mở đầu bằng phong trào sinh viên, học sinh Huế và kết thúc là cuộc kháng chiến chống Mỹ hoàn toàn thắng lợi. Tác phẩm “Vùng lõm” (giải Nhì cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 của Hội Nhà văn Việt Nam, 2006 - 2010) đi sâu vào hiện thực chiến tranh và thành công trong việc xây dựng lý tưởng, mang đậm chất sử thi... Chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân đa dạng như thế nào, thì các trang viết của Nguyễn Quang Hà đều soi tỏ đến đó. Hiện thực trong tiểu thuyết của ông là hiện thực chiến tranh khốc liệt; có không gian rộng khắp trên các vùng quê cách mạng; là hiện thực gắn chặt với các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử trên địa bàn thành phố Huế.

Với nhà văn Hà Khánh Linh, bà đã xuất bản hơn 30 đầu sách, đa phần là viết về chiến tranh. Dù là tiểu thuyết hay truyện ngắn, các nhân vật của nhà văn Hà Khánh Linh nếu không trực tiếp chiến đấu thì cũng bước ra từ cuộc chiến. Trong các tác phẩm: “Thúy”, “Chiến tranh và sau chiến tranh”, “Nụ cười Apsara”, “Ngày ấy Trường Sơn”... nhà văn không chỉ thể hiện sự ác liệt, tàn khốc của chiến tranh mà còn đề cập đến nhiều vấn đề mang tính nhân loại, như: sự sống và cái chết, chính nghĩa và phi nghĩa, cái cao cả và cái thấp hèn... Nếu “Chiến tranh và sau chiến tranh” viết về sức tàn phá của chất độc dioxin mà quân Mỹ đã rải xuống chiến trường Huế, thì “Em còn gì sau chiến tranh” là nỗi đau từ những cơn dư chấn của chiến tranh và truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc trong những ngày tháng Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép tại Việt Nam.

Ngay cả khi đất nước hòa bình, nhà văn Hà Khánh Linh vẫn xung phong sang Campuchia khi đất nước này vẫn đang chiến đấu với tàn dư Polpot. Tác phẩm “Nụ cười Apsara” với những trang viết sống động, chân thực ra đời trong những ngày nữ văn sĩ bất chấp hiểm nguy rong ruổi khắp Campuchia; đã được trao tặng Giải thưởng Văn học sông Mê Kông.

Đặng Ngọc Nguyên

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/vai-net-ve-van-hoc-de-tai-chien-tranh-cach-mang-o-hue-154503.html