Vận dụng tư tưởng Ph.Ăngghen về sức mạnh chiến đấu của Quân đội trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại
Ph.Ăngghen - nhà tư tưởng kiệt xuất, người đồng chí chiến đấu thân thiết của Các Mác - không chỉ để lại những tác phẩm bất hủ về triết học, chính trị, kinh tế, mà còn có những cống hiến to lớn về lý luận quân sự của giai cấp vô sản.
Tư tưởng của ông về sức mạnh chiến đấu của Quân đội cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thời đại. Đối với Việt Nam, việc kế thừa, vận dụng sáng tạo những luận điểm đó đã và đang góp phần trực tiếp vào công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Tư tưởng Ph. Ăngghen về sức mạnh chiến đấu của Quân đội
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XIX, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ Quân đội là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, gắn liền với sự tồn tại của nhà nước. Ông khẳng định: “Quân đội đã trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước, trở thành một mục đích tự nó”1. Với ông, không có Quân đội phi giai cấp; bản chất giai cấp của Quân đội là tương đối ổn định, song luôn chịu tác động của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, phương thức sản xuất và tương quan lực lượng trong xã hội. Do sự tác động của các yếu tố trên mà bản chất giai cấp của Quân đội có thể được tăng cường hoặc bị phai nhạt. Sự thay đổi diễn ra dần dần thông qua việc tăng cường hoặc suy yếu dần các mối quan hệ.
Trong lịch sử chưa có Quân đội nào chiến đấu vì lợi ích chung của tất cả các giai cấp. Ph. Ăngghen chỉ rõ, Quân đội là công cụ bạo lực để nhà nước thống trị, đàn áp nhân dân lao động, răn đe, buộc quần chúng nhân dân lao động phải phục tùng giai cấp thống trị và nhà nước, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong nước; tiến hành chiến tranh bảo vệ lãnh thổ của nhà nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài, hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng lãnh thổ, phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, áp đặt ách nô dịch đối với dân tộc khác.

Ảnh minh họa: qdnd.vn
Về chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, Ph. Ăngghen cho rằng, bất cứ Quân đội nào cũng là cơ sở chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, do mục đích chính trị, quan điểm và phương pháp sử dụng của các giai cấp và nhà nước khác nhau, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội có sự biến đổi theo.
Về sức mạnh chiến đấu của Quân đội, theo Ph. Ăngghen, đó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố cấu thành, như con người, các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học quân sự và phương thức sản xuất, trong đó kinh tế là nhân tố cơ bản, quan trọng quyết định đến sức mạnh chiến đấu của Quân đội nói chung và Quân đội của giai cấp vô sản nói riêng. Ph. Ăngghen nói: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của Quân đội, thắng lợi hay thất bại rõ ràng là phụ thuộc vào các điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế”2. Theo đó, sức mạnh Quân đội của giai cấp vô sản phải được tổ chức theo một quy tắc nghiêm minh, chặt chẽ, từ con người, vũ khí, trang bị kỹ thuật, tổ chức cho đến trình độ sử dụng các loại vũ khí, trong đó con người là quan trọng nhất. Theo Ph. Ăngghen, vũ khí trang bị kỹ thuật dù có hiện đại đến bao nhiêu thì cũng không bao giờ có thể thay thế được con người, con người sáng tạo ra vũ khí, trang bị kỹ thuật và sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật đó ở những mục đích chính trị khác nhau.
Những tư tưởng, quan điểm của Ph. Ăngghen về sức mạnh của Quân đội nói chung và Quân đội của giai cấp vô sản nói riêng đã tạo bước ngoặt căn bản về lý luận quân sự của giai cấp vô sản, vừa mang tính khoa học, vừa mang tính cách mạng. Vì vậy, C. Mác coi Ph. Ăngghen là “người có uy tín về quân sự bậc nhất”. Lý luận về quân sự của Ph. Ăngghen trở thành công cụ sắc bén để mỗi đảng cộng sản cầm quyền nhận thức sâu sắc và thực thi hiệu quả trong đấu tranh giành và giữ chính quyền cách mạng, tổ chức xây dựng Quân đội phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước, đáp ứng với những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.
Vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Ph. Ăngghen. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Và muốn giành, giữ chính quyền cách mạng, nhất thiết phải tổ chức Quân đội kiểu mới - Quân đội của công nông, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.
Từ những đội tự vệ, du kích nhỏ bé, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trưởng thành qua các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và làm nghĩa vụ quốc tế. Dù phần lớn cán bộ, chiến sĩ xuất thân từ nông dân, song với lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, họ đã chuyển từ giác ngộ dân tộc lên giác ngộ giai cấp, từ tinh thần độc lập dân tộc lên ý thức xã hội chủ nghĩa, trở thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, của dân tộc. Đây chính là minh chứng sống động cho luận điểm của Ph. Ăngghen: Con người là nhân tố quyết định sức mạnh Quân đội.
Trải qua hơn 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định vị thế là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ bạo lực sắc bén bảo vệ Tổ quốc, giữ vững hòa bình, độc lập dân tộc.
Thời cơ, thách thức mới trong xây dựng Quân đội
Hiện nay, đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, với những thời cơ và thách thức đan xen. Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là dòng chảy chủ đạo, song các yếu tố gây mất ổn định vẫn tiềm ẩn: Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; tranh chấp chủ quyền biển, đảo, biên giới; chiến tranh thương mại, an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh toàn cầu...
Đặc biệt, các thế lực thù địch không ngừng gia tăng chống phá, thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “phi chính trị hóa Quân đội”. Song song đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra yêu cầu cấp bách phải hiện đại hóa Quân đội, chuẩn bị đối phó với chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh mạng, tác chiến đa lĩnh vực.
Tình hình đó đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam phải tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Ph. Ăngghen, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh, không để bị động, bất ngờ.
Một số nội dung trọng tâm cần thực hiện để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Trước hết, kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, bất di bất dịch, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội cũng phải tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bảo đảm đúng những đường hướng lãnh đạo, chỉ đạo mà ngay từ khi Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã xác lập: Đảng tổ chức và lãnh đạo Quân đội công nông để giành và giữ chính quyền. Nhất quán tinh thần đó, trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã không ngừng củng cố, bổ sung, điều chỉnh, từng bước tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội (khóa 1) nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 1-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội: “Then chốt thắng lợi của kháng chiến là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố công nông liên minh, củng cố chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển Quân đội, củng cố Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt”3. Đảng khẳng định: “Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”4. Trên cơ sở đó, Quân đội phải cụ thể hóa, thể chế hóa vào từng lĩnh vực hoạt động, giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện về mọi mặt, nhất là vững mạnh về chính trị, để không bị động, bất ngờ trước mọi tình huống, sự việc có thể xảy ra, bảo vệ vững chắc Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại. Cần tăng cường giáo dục truyền thống của Đảng, của Quân đội, bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; kiên quyết khắc phục tình trạng xem nhẹ công tác Đảng, công tác chính trị.
Nâng cao cảnh giác, kiên quyết làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa Quân đội” của các thế lực thù địch. Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII, XIII), gắn với Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; thực hiện Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, siết chặt kỷ luật, giữ vững nền nếp chính quy, môi trường văn hóa lành mạnh.
Đồng thời, phát huy giá trị lịch sử quân sự dân tộc, tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới; đầu tư hiện đại hóa vũ khí, phương tiện, chú trọng lực lượng nòng cốt trong chiến tranh công nghệ cao. Gắn với đó, thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”, góp phần tiết kiệm ngân sách, nâng cao sức mạnh chiến đấu.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh, phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ.
Cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ, nhất là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII); Kết luận số 37-KL/TW (2009); Kết luận số 24-KL/TW (2012); Nghị quyết số 18-NQ/TW (2017) về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 109-NQ/QUTW (2019); Nghị quyết số 05-NQ/TW (2021); Nghị quyết số 230-NQ/QUTW (2022); cùng Kết luận số 126-KL/TW (2025). Đồng thời, triển khai hiệu quả Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Quân đội. Tập trung đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ trì, bảo đảm phẩm chất đạo đức, tiêu chuẩn chính trị và năng lực công tác. Quán triệt phương châm “Nêu gương, tình thương, trách nhiệm”, xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự mẫu mực, là chỗ dựa tin cậy, tấm gương sáng cho bộ đội học tập, noi theo.
Bốn là, nâng cao chất lượng công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kịp thời đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; ngăn chặn âm mưu “phi chính trị hóa Quân đội”. Đồng thời, duy trì nghiêm kỷ luật, kỷ cương; xây dựng môi trường văn hóa quân sự trong sạch, lành mạnh, đậm đà bản sắc Bộ đội Cụ Hồ.
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Kế thừa, phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự nhân loại. Mở rộng hợp tác quốc phòng quốc tế, tham gia tích cực lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Tư tưởng Ph. Ăngghen về sức mạnh chiến đấu của Quân đội không chỉ có giá trị lịch sử mà còn là kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vận dụng sáng tạo tư tưởng đó, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục lớn mạnh, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tiến thẳng lên hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, góp phần tích cực vào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Đại tá, TS PHẠM VĂN VĨNH và Trung tá, ThS NGUYỄN MẠNH HÀ (Khoa Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng)
1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập (1994). Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 240, 241.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 435.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. tr. 352.