Văn hóa Việt Nam - 80 năm hội tụ, kết tinh và tỏa sáng
Nếu lịch sử là cuốn biên niên sử bằng máu và nước mắt, thì văn hóa chính là cuốn trường ca bằng tâm hồn, bằng bản sắc và bằng những giá trị tinh thần kết tinh qua nghìn năm dựng nước. Dân tộc Việt Nam có thể trải qua muôn vàn thử thách, song luôn đứng vững nhờ sức mạnh của văn hóa - cái sức mạnh vô hình mà bền bỉ, thẳm sâu mà rực rỡ.

Ảnh minh họa: VGP/Nhật Bắc
80 năm qua, kể từ mùa Thu năm 1945, ngành Văn hóa Việt Nam đã cùng dân tộc đi qua những bước ngoặt lớn của lịch sử. Từ Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 - cột mốc khai sinh một tư tưởng, đến những bản anh hùng ca trong kháng chiến, từ công cuộc Đổi mới đến thời kỳ hội nhập quốc tế, văn hóa luôn song hành, soi sáng và đồng hành cùng sự phát triển của đất nước.
Giữa những ngày đen tối của dân tộc, khi đất nước còn chìm trong ách nô lệ, bản “Đề cương Văn hóa Việt Nam” ra đời (1943) như một ngọn đuốc khai sáng. Với ba nguyên tắc bất hủ: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa, văn hóa được xác định là một “mặt trận”, là “vũ khí tinh thần sắc bén” trong công cuộc giải phóng dân tộc.
Đó không chỉ là văn kiện lý luận, mà còn là tuyên ngôn cho một nền văn hóa mới - nền văn hóa của độc lập, tự do, vì nhân dân và do nhân dân sáng tạo. Từ đây, văn hóa Việt Nam bước ra khỏi phạm vi của tao nhân mặc khách, trở thành sức mạnh tập hợp quần chúng, thành tiếng nói của non sông.
Trong những năm tháng trường kỳ chống Pháp, văn hóa nghệ thuật thực sự trở thành vũ khí. Một bài hát, một bài thơ, một bức tranh cổ động có thể lay động hàng vạn trái tim. Từ “Làng tôi”, “Du kích sông Thao” đến những bức ký họa chiến trường, tất cả đã tạo nên dòng chảy tinh thần bất tận. Văn hóa đã nâng bước những đoàn quân ra trận, chở che những mái làng sau lũy tre xanh, thắp sáng niềm tin vào chiến thắng.
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là minh chứng hùng hồn hơn cả. Trong những năm tháng bom đạn ác liệt, những bản nhạc như “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây”, “Cô gái mở đường”, những vở kịch, những thước phim thời sự… đã trở thành nguồn động viên vô giá. Văn hóa là điểm tựa để cả dân tộc vững vàng đi tới ngày đại thắng mùa Xuân 1975.
Có thể nói, không có dòng chảy văn hóa, sẽ khó có sức mạnh tinh thần để nuôi dưỡng khát vọng độc lập. Văn hóa chính là “soi đường cho quốc dân đi”, như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau năm 1986, đất nước bước vào công cuộc Đổi mới, ngành Văn hóa cũng mở ra hành trình mới. Văn hóa không còn chỉ gắn với chiến tranh, mà trở thành nền tảng tinh thần và động lực phát triển.

Sinh hoạt văn nghệ của cơ quan trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh tư liệu
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa lan tỏa khắp mọi miền, xây dựng lối sống văn minh từ làng quê đến đô thị. Các Ngày hội Văn hóa dân tộc, Liên hoan nghệ thuật quần chúng, Festival Huế, Liên hoan phim Việt Nam… trở thành không gian để quảng bá, lan tỏa bản sắc.
Văn hóa từ chỗ “phục vụ chiến đấu” đã trở thành “cái gốc để dựng xây”, bồi dưỡng con người mới, nhân cách mới, xã hội mới.
Trong ba thập kỷ qua, hệ thống văn bản pháp luật về văn hóa ngày càng hoàn thiện. Luật Di sản văn hóa, Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo, Luật Thư viện… đã tạo khung pháp lý cho sự phát triển toàn diện.
Đặc biệt, tại Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035 – một quyết sách lớn khẳng định sự quan tâm chiến lược của Đảng, Nhà nước đối với văn hóa.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng chuyển mạnh tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hóa”, chủ động rà soát, bổ sung, xử lý nhiều “điểm nghẽn” pháp lý, tạo động lực mới cho sáng tạo và bảo tồn.
Việt Nam tự hào là đất nước có kho tàng di sản văn hóa phong phú. Tính đến nay, chúng ta có 9 di sản thế giới, 11 di sản tư liệu, gần 70.000 di sản phi vật thể được kiểm kê, trong đó 635 di sản được công nhận cấp quốc gia.
Nhã nhạc cung đình Huế, Ca trù, Quan họ Bắc Ninh, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ… không chỉ là ký ức của cha ông, mà còn là “hộ chiếu văn hóa” để Việt Nam giới thiệu bản sắc với thế giới.
Quan trọng hơn, di sản không còn “nằm trong kho”, mà được gắn với phát triển du lịch, tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng. Văn hóa trở thành nguồn lực kinh tế, đồng thời vẫn giữ vai trò cốt lõi trong việc giáo dục, bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc.

Các đại biểu dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, tháng 11/1946. Ảnh tư liệu
Bước sang thế kỷ XXI, công nghiệp văn hóa nổi lên như một lĩnh vực đầy tiềm năng. Với quy mô sản xuất ước đạt 1,059 triệu tỷ đồng (44 tỷ USD), đóng góp gần 4,4% GDP, công nghiệp văn hóa đang dần trở thành “cỗ máy” tạo ra của cải vật chất song hành cùng giá trị tinh thần.
Điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình, trò chơi điện tử, du lịch văn hóa… đang chứng kiến sự bùng nổ. Tốc độ tăng trưởng cơ sở kinh tế đạt 7,2%/năm, lực lượng lao động tăng 7,4%/năm – con số minh chứng cho sức sống mãnh liệt của ngành.
Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra những không gian sáng tạo mới. Văn hóa Việt Nam đã bắt nhịp bằng việc xây dựng cơ sở dữ liệu số, hình thành không gian sáng tạo, khuyến khích nội dung số. Bảo tàng ảo, triển lãm trực tuyến, lễ hội trên nền tảng số… đã trở thành hiện thực, nhất là sau đại dịch COVID-19.
Trên bình diện quốc tế, ngoại giao văn hóa được đẩy mạnh. Các Tuần lễ Văn hóa Việt Nam ở Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…; những chương trình nghệ thuật giao lưu, những festival quốc tế tại Huế, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã nâng tầm hình ảnh đất nước. Việt Nam ngày càng được biết đến như một quốc gia vừa giữ gìn truyền thống, vừa hội nhập năng động.

Chương trình nghệ thuật đặc biệt "Đề cương văn hóa Việt Nam - Những dấu ấn lịch sử - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Nhìn lại 80 năm, chúng ta tự hào nhưng không ngủ quên. Toàn cầu hóa, công nghệ số, biến đổi khí hậu, dịch bệnh… đang đặt ra thách thức lớn cho văn hóa. Làm sao để giữ gìn bản sắc trong bão hòa toàn cầu? Làm sao để phát huy giá trị di sản? Làm sao để công nghiệp văn hóa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn?
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Đây là kim chỉ nam để toàn ngành Văn hóa tiếp tục đổi mới, sáng tạo, hội nhập.
Tám mươi năm - quãng thời gian chưa dài so với lịch sử nghìn năm văn hiến, nhưng đủ để minh chứng rằng văn hóa luôn đồng hành cùng dân tộc. Từ “Đề cương Văn hóa” 1943 đến hôm nay, văn hóa đã hun đúc tinh thần kháng chiến, nâng bước công cuộc Đổi mới, tạo sức mạnh hội nhập.
Ngành Văn hóa đã viết nên bản trường ca rực rỡ, nơi bản sắc Việt Nam được hội tụ, kết tinh và tỏa sáng. Và từ đây, một kỷ nguyên mới mở ra - kỷ nguyên mà văn hóa Việt Nam không chỉ soi đường cho dân tộc, mà còn góp phần làm giàu thêm bản đồ tinh thần của nhân loại.