Vận hội mới của ngành Giáo dục (Bài 3): Đột phá lớn nhất Nghị quyết 71 là sự chuyển dịch tư duy, mở ra cơ hội 'bứt tốc' trong kỷ nguyên số
Điểm đột phá lớn nhất của Nghị quyết số 71-NQ/TW (Nghị quyết 71) là sự chuyển dịch tư duy, coi giáo dục là động lực trực tiếp để hình thành 'nguồn vốn con người' phục vụ phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số và hội nhập quốc tế.

TS. Phạm Hoàng Mạnh Hà cho rằng, Nghị quyết 71 đã đưa ra những định hướng quan trọng, mang tính đột phá để Việt Nam xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. (Ảnh NVCC)
Đó là quan điểm của TS. Phạm Hoàng Mạnh Hà, Giảng viên trường đại học Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa với Báo Thế giới và Việt Nam xung quanh tầm vóc lịch sử của Nghị quyết 71-NQ/TW đối với sự nghiệp giáo dục của nước ta.
Hiện thực hóa khát vọng, mở ra cơ hội "bứt tốc"
Nghị quyết 71-NQ/TW được đánh giá là mang tầm vóc lịch sử đối với sự nghiệp giáo dục. Theo ông, đâu là điểm đột phá lớn nhất mà Nghị quyết này mang lại so với các chủ trương, chính sách trước đây?
Điểm đột phá lớn nhất của Nghị quyết số 71 là sự chuyển dịch tư duy, từ tư duy đổi mới trong phạm vi ngành sang tư duy giáo dục, là trụ cột chiến lược trong phát triển quốc gia và hội nhập quốc tế. Cụ thể hơn, Nghị quyết biểu thị cách tiếp cận toàn diện, tích hợp giữa giáo dục - đào tạo với khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nội dung Nghị quyết cũng gắn trực tiếp với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong kỷ nguyên số.
Trước đây, những chủ trương, quyết nghị về giáo dục thường tập trung vào mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới chương trình dạy học hoặc sách giáo khoa, hay cải thiện cơ chế quản lý. Nghị quyết 71 đã coi giáo dục là động lực trực tiếp để hình thành “nguồn vốn con người” phục vụ phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số và hội nhập quốc tế. Cũng là lần đầu tiên Bộ Chính trị nhấn mạnh đến việc đào tạo nhân lực trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ mũi nhọn, chuyển đổi số, năng lượng mới, trí tuệ nhân tạo, gắn với nhu cầu thực tiễn.
Bên cạnh đó, Nghị quyết khẳng định đổi mới cơ chế quản lý và huy động nguồn lực. Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết, đồng thời mở rộng không gian cho xã hội hóa, hợp tác công - tư, tự chủ đại học, hội nhập giáo dục quốc tế. Những điểm mới này sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh và sáng tạo trong đào tạo.
Nghị quyết này nhấn mạnh mục tiêu hội nhập, đổi mới sáng tạo và vươn tầm quốc tế. Đâu là thách thức và cơ hội lớn nhất để giáo dục Việt Nam hiện thực hóa khát vọng này, dưới góc nhìn của ông?
Theo tôi, Nghị quyết 71 sẽ mở ra cơ hội “bứt tốc” trong kỷ nguyên số; cho phép giáo dục Việt Nam thu hẹp khoảng cách với quốc tế nếu ứng dụng hiệu quả công nghệ mới trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu. Chúng ta cũng sẽ thuận lợi để hội nhập sâu rộng với tri thức quốc tế.
Việc mở rộng hợp tác giáo dục - đào tạo với thế giới chính là cơ hội để Việt Nam “xuất khẩu” nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời “nhập khẩu” các mô hình đào tạo tiên tiến. Nếu tận dụng tốt cơ hội, vị thế quốc gia sẽ được nâng tầm, giáo dục Việt Nam có thể trở thành điểm đến của sinh viên quốc tế trong khu vực, đóng vai trò trung tâm đào tạo nhân lực trong một số lĩnh vực mũi nhọn.
Tuy nhiên, trong việc triển khai nghị quyết, chúng ta cũng gặp phải không ít thách thức. Thứ nhất là khoảng cách về chất lượng giáo dục hiện tại và “chuẩn” giáo dục quốc tế. Sự chênh lệch ấy biểu hiện rất rõ ở các yếu tố như ngoại ngữ, kỹ năng mềm, tư duy phản biện, năng lực nghiên cứu độc lập.
Thứ hai, về cạnh tranh học thuật, nhiều cơ sở đào tạo thiếu cơ chế thu hút giảng viên có trình độ cao, chưa phát huy hiệu quả mô hình tự chủ đại học. Mà một khi không thể cạnh tranh sòng phẳng về học thuật thì thực trạng “chảy máu chất xám” sẽ là câu chuyện “biết rồi - khổ lắm - nói mãi”.
Thứ ba, vươn tầm quốc tế nhưng đồng thời cũng phải khẳng định được giá trị riêng, phải cân bằng được “toàn cầu” với “bản địa”. Tôi cho rằng đây là những “điểm nghẽn” mà nếu không vượt qua được thì hội nhập giáo dục sẽ trở thành áp lực nhiều hơn là cơ hội.

Giáo dục không chỉ dừng ở “truyền thụ kiến thức” mà phải trở thành nền tảng cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. (Ảnh: Phạm Thanh Thủy)
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, Nghị quyết đã đưa ra những định hướng nào giúp Việt Nam xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển quốc gia?
Dễ dàng nhận thấy Nghị quyết 71 đã đưa ra những định hướng quan trọng, mang tính đột phá để Việt Nam xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh toàn cầu hóa và CMCN 4.0.
Cụ thể hơn, Nghị quyết định hướng phát triển giáo dục gắn với khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo đó, giáo dục - đào tạo không chỉ dừng ở “truyền thụ kiến thức” mà phải trở thành nền tảng cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Tức là chương trình, nội dung đào tạo cần gắn trực tiếp với các lĩnh vực khoa học - công nghệ mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, tự động hóa… nhằm tạo ra đội ngũ nhân lực tinh hoa.
"Việc mở rộng hợp tác giáo dục - đào tạo với thế giới chính là cơ hội để Việt Nam 'xuất khẩu' nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời 'nhập khẩu' các mô hình đào tạo tiên tiến".
Bộ Chính trị cũng định hướng hội nhập quốc tế và chuẩn hóa nguồn nhân lực; chuẩn hóa hệ thống đào tạo theo khu vực và quốc tế, mở rộng hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu trên thế giới. Bên cạnh đó, thay vì chú trọng vào ghi nhớ, Nghị quyết yêu cầu đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng phát triển năng lực, kỹ năng sáng tạo, tư duy phản biện, ngoại ngữ và kỹ năng số. Đây là những năng lực cốt lõi giúp người học có thể thích ứng và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nói cách khác, đây là định hướng đổi mới căn bản phương pháp giáo dục.
Một điểm mới quan trọng khác là Nghị quyết khuyến khích mô hình giáo dục theo nhu cầu xã hội, đào tạo đi liền với sử dụng. Sự liên kết chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục với doanh nghiệp và thị trường lao động sẽ giúp chương trình đào tạo bám sát yêu cầu thực tiễn hiện nay. Nghị quyết này cũng khẳng định sự cần thiết của một cơ chế đặc thù nhằm phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Tôi cho rằng, đây là điểm then chốt bởi nhân lực có trình độ thường có xu hướng dịch chuyển, nếu không có chính sách đủ hấp dẫn thì khó giữ chân nguồn lực tinh hoa. Cũng cần nói thêm là Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu hệ thống giáo dục phải đảm bảo cơ hội tiếp cận công bằng, “không ai bị bỏ lại phía sau”.
Nói cách khác, tinh thần của Nghị quyết là xây dựng nguồn nhân lực chất lượng dựa trên 4 nền tảng: Hội nhập quốc tế - chuẩn hóa đào tạo; gắn với khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát triển năng lực toàn diện cho người học; cơ chế chính sách phát triển nhân tài.
Để giáo dục vươn tầm khu vực và quốc tế
Để biến quyết tâm chính trị thành hành động cụ thể, để giáo dục Việt Nam vươn tầm quốc thế, ngành giáo dục cần ưu tiên những bước đi nào trước mắt để hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 71?
Theo tôi, ngành Giáo dục cần tập trung vào một số bước đi ưu tiên. Đầu tiên, chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; từng bước chuẩn hóa đội ngũ quản lý theo chuẩn quốc tế, nhất là ở bậc đại học, để bảo đảm năng lực quản trị, tự chủ và hội nhập.
Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục, đưa trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn vào quản lý học tập, kiểm định chất lượng. Cần phải xem đây là nền tảng để giáo dục Việt Nam rút ngắn khoảng cách với thế giới. Bên cạnh đó, cần tập trung ưu tiên một số lĩnh vực đào tạo mũi nhọn, chẳng hạn như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa… Các trường đại học trọng điểm cần trở thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu ngang tầm với khu vực.
Ngoài ra, cần thúc đẩy hợp tác quốc tế có chọn lọc, xây dựng chính sách thu hút giảng viên, nhà khoa học quốc tế giảng dạy, nghiên cứu tại Việt Nam. Đối với chương trình đào tạo, cần tăng cường gắn kết giáo dục với doanh nghiệp và thị trường lao động mà để sớm hiện thực hóa, cần ban hành cơ chế phối hợp giữa trường đại học - doanh nghiệp - Nhà nước trong đào tạo nhân lực. Theo đó, cần tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình thiết kế chương trình, đánh giá chuẩn đầu ra, cung cấp cơ hội thực tập và tuyển dụng.
Cuối cùng, hoàn thiện và thực hiện một cách nghiêm túc cơ chế phát hiện và trọng dụng nhân tài. Tuyệt đối tránh tình trạng “sấm to - mưa nhỏ” theo kiểu xây dựng chính sách đãi ngộ “nghe thì hay” nhưng áp dụng lại nửa vời, thiếu triệt để.

Nghị quyết 71 sẽ tạo nền tảng quan trọng để giáo dục Việt Nam vươn tầm khu vực và quốc tế. (Ảnh: Phạm Thanh Thủy)
Ông kỳ vọng Nghị quyết này sẽ tạo ra sự thay đổi như thế nào đối với người học, đội ngũ nhà giáo và xã hội trong 5 - 10 năm tới?
Nếu được triển khai quyết liệt, tôi tin Nghị quyết 71 sẽ tạo nền tảng quan trọng để giáo dục Việt Nam vươn tầm khu vực và quốc tế. Trước mắt, trong 5-10 năm tới, người học sẽ được tiếp cận chương trình, phương pháp đào tạo theo chuẩn khu vực và quốc tế, từ đó có thể cạnh tranh bình đẳng trên thị trường lao động toàn cầu.
Bên cạnh đó, thay vì học nặng về kiến thức hàn lâm, người học sẽ được rèn luyện kỹ năng số, ngoại ngữ, tư duy phản biện, sáng tạo và khởi nghiệp. Việc chuyển đổi số và kiến tạo hệ sinh thái học tập mở sẽ mở ra cơ hội học tập suốt đời. Quan trọng hơn, khi giáo dục gắn chặt hơn với doanh nghiệp, người học sẽ giảm nguy cơ thất nghiệp sau khi ra trường.
"Ngành Giáo dục cần hoàn thiện và thực hiện một cách nghiêm túc cơ chế phát hiện và trọng dụng nhân tài. Tuyệt đối tránh tình trạng 'sấm to - mưa nhỏ' theo kiểu xây dựng chính sách đãi ngộ 'nghe thì hay' nhưng áp dụng lại nửa vời, thiếu triệt để".
Đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, họ sẽ được chuyên nghiệp hóa theo chuẩn quốc tế do phải đáp ứng các tiêu chuẩn mới về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng số và “nghiệp vụ sư phạm mới”. Đội ngũ giáo viên, giảng viên sẽ từng bước dịch chuyển vai trò, vị trí; từ “người truyền đạt kiến thức” theo mô hình cũ, trở thành người hướng dẫn, đồng hành cùng người học để khám phá tri thức.
Một vấn đề khác, đang rất “nóng” tại các diễn đàn là thu nhập, lương thưởng cho nhà giáo. Đãi ngộ tăng lên thì vị thế cũng tỷ lệ thuận. Song, để có được điều ấy, mỗi nhà giáo sẽ phải tự tìm lời giải cho bài toán tự học, tự đổi mới, thích ứng công nghệ và phương pháp giảng dạy mới.
Trên bình diện xã hội, khi chất lượng nguồn nhân lực được nâng tầm, xã hội sẽ sở hữu lực lượng lao động chất lượng cao, có khả năng tham gia vào các ngành kinh tế tri thức, công nghệ mũi nhọn. Nguồn nhân lực Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh mạnh hơn, đáp ứng yêu cầu quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu. Vấn đề việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp được giải quyết sẽ củng cố niềm tin của xã hội vào giáo dục.
Lúc này, dư luận sẽ nhìn nhận giáo dục như một động lực để phát triển quốc gia. Quan trọng nhất, Việt Nam sẽ định hình thành văn hóa học tập suốt đời, việc tiếp thu, cập nhật kiến thức, kỹ năng trở thành nhu cầu thường xuyên của công dân. Tóm lại, đó sẽ là mô hình “người học năng động - nhà giáo chuyên nghiệp - xã hội học tập” mà tôi hy vọng Nghị quyết 71 sẽ tạo ra trong từ 5-10 năm tới; đặt cơ sở vững chắc để Việt Nam vươn mình.
Ngày 22/8, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW). Nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 71 như sau:
1. Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ để đột phá phát triển giáo dục và đào tạo
2. Đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo
3. Tăng cường giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ, hình thành hệ giá trị con người Việt Nam thời đại mới
4. Chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo
5. Tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất trường lớp đạt chuẩn, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông
6. Cải cách, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao
7. Hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo
8. Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giáo dục và đào tạo